Thứ Năm, 2 tháng 4, 2015

                      Phật giáo VN giữa dòng đời biến động

Ngày xưa Đức Phật bỏ cung vàng điện ngọc, dầm mưa dãi nắng, ăn đói mặc rách suốt 49 ngày đêm thiền định dưới gốc bồ đề mới tìm ra chân lý giải thoát.
Ngày nay có những người xưng là đệ tử Phật gia nhưng hám mùi tiền, tham danh lợi, có cuộc sống đầy đủ tiện nghi không khác chi hàng quyền quý.
Đã bước chân vào chốn 'Không Môn' chắc hẳn các vị ấy đều biết câu 'vô thường', 'giả tướng'?
Nếu không dứt được cái tâm vọng tưởng đối với sự vật hiện tượng thì sẽ dẫn đến u sầu, đau khổ khi mọi việc không được như ý.
Có sinh tất có diệt, có thành ắt có hoại, có hợp rồi sẽ tan, các vị tu hành có nghiên cứu kinh điển đều biết rằng vạn vật, từ thân thể cho đến của cải vật chất, đều là tổng hòa các mối nhân duyên. Đủ duyên sinh thì sẽ tạo, duyên diệt đến thì sẽ tiêu.
Thành ra các vị ấy mang tiếng tu hành mà nguyên lý căn bản nhất của nhà Phật cũng không biết thì chẳng qua chỉ là lợi dụng cửa thiền cho lợi ích riêng mình mà thôi.
Suy cho cùng, tu theo Phật pháp là cả quá trình luyện tâm rèn trí - giống như thuần hóa con trâu dữ. Bước vào cửa Không, từ bi không là chưa đủ mà còn phải có trí tuệ và dũng khí nữa.
Cần trí tuệ để nhìn thấu vạn vật và có dũng khí để không bị sức hút của vật chất. Khi đó mới có thể 'tinh tấn' đi trên con đường Đức Phật đã chỉ sẵn.
Cho nên cửa Phật thích hợp với những bậc tâm chánh trí sáng, bản lĩnh hơn người và tự giác buông bỏ để đi tìm sự giải thoát như Đức Vua Trần Nhân Tông hơn là với những người vì buồn chuyện tình duyên hay vì bất đắc chí mà tìm đến cửa Thiền để trốn tránh và càng không phải là chỗ cho những người còn ham muốn tiền bạc tiện nghi và chưa thoát được vòng tục lụy.

Ít bậc chân tu?

Từ ngàn xưa đến nay kẻ xuất gia thì nhiều nhưng mấy ai tu thành chánh quả?
Đại đa số chúng ta đều xoay vần trong cuộc sống hàng ngày nên không có cái nhìn vượt lên vòng sinh tử và càng không đủ sức thoát ra khỏi cuộc sống mình đã gắn chặt.
Người phát tâm tu hành thật sự là người hiểu được quy luật 'Sinh, Lão, Bệnh, Tử' của cái bàn cờ cuộc đời mà họ bị ném vào mà có vũng vẫy cách mấy cũng không thoát ra được.
Có ai sinh ra muốn mình sẽ già? Nhưng rồi ai cũng sẽ suy nhược đuối sức. Có ai muốn mình sẽ bệnh? Nhưng rồi có lúc sẽ đau đớn thể xác để rồi sức tàn lực kiệt. Có ai chịu nổi cảnh sinh ly tử biệt? Nhưng rồi cũng đến lúc phải vĩnh viễn rời xa những người thương yêu nhất mà không gì có thể níu kéo được!
Những bậc tu hành nắm rõ những điều này hơn ai hết. Từ đó họ sẽ có tâm thanh thản, bình an. Họ sẽ chẳng bận lòng có ít hay nhiều fan trên Facebook như vị trụ trì ở Hải Dương kia hay cũng chẳng quan trọng gì những lời cay nghiệt nếu mình không làm gì sai.
Và những người chân tu sẽ có tinh thần lạc quan, bình thản như mặt nước hồ trong không gợn sóng trước dòng đời biến động, giống như Mãn Giác thiền sư: "Xuân qua trăm hoa rụng - Xuân tới trăm hoa cười - Trên đầu việc đi mãi - Trước mắt già đến rồi".

Suy giảm niềm tin?

Nhưng nói gì thì nói, những vụ tai tiếng liên tục của các vị tăng ni vừa qua đã ít nhiều ảnh hưởng đến niềm tin vào đạo Phật nói chung trong công chúng.
Tuy nhiên, Đức Phật đã nói đừng tin lời Ngài mà hãy thực hành. Thực hành hiệu quả mới tin.
Đức Phật từng nói khi thành đạo: "Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành."

Vườn Lâm Tỳ Ny ở Nepal nơi Đức Phật đản sanh.

Tức là Đức Phật cũng chỉ là người bình thường như mọi người nhưng là người đã tìm ra con đường giải thoát để chỉ dẫn chúng sinh và Ngài tin tưởng ai cũng có thể làm được như Ngài.
Ngài không phải bậc quyền năng, và pháp của Ngài, do đó, cũng không dựa trên những điều huyễn hoặc.
Con người đến với tôn giáo phần lớn là để tìm chỗ dựa tinh thần, nhưng với việc 'phải thực hành thì mới tin' thì các Phật tử chỉ có thể dựa vào chính bản thân mình mà thôi.
Và nếu họ làm theo mà thấy hiệu quả thì dù người khác có làm sao hoặc có nói thế nào cũng không làm cho họ hết tin được.
Do Phật giáo không dạy về chữ 'Tin' mà chỉ là phương tiện để giúp con người thoát khổ nên sức mạnh của Phật giáo nằm ở Pháp chứ không phải số lượng tín đồ. Có thêm người theo, Đức Phật cũng chẳng mạnh thêm và bớt đi tín đồ cũng không làm cho Pháp của Ngài yếu đi.
Chính vì vậy Phật giáo không có các điều luật ràng buộc tín đồ và cũng không có nhu cầu tổ chức chặt chẽ và không xem việc truyền đạo là yếu tố sống còn.
Dĩ nhiên với tính chất và tổ chức như vậy thì những ai hướng đến Phật chỉ bằng niềm tin thì niềm tin đó ít nhiều sẽ bị lung lay trước sự xuống cấp của hàng tăng chúng. Còn những ai hiểu và thực hành chánh pháp thì chẳng ảnh hưởng gì.

Không còn hưng thịnh

Ít nhất Phật giáo Việt Nam ngày nay đã không còn hưng thịnh như xưa.
Được truyền đầu tiên từ Ấn Độ, Phật giáo thời sơ khởi ở Việt Nam đã phát triển đến mức có vị cao tăng được nước Đông Ngô thời Tam Quốc bên Trung Quốc mời sang giảng đạo.
Qua đường giao lưu văn hóa, Phật giáo thâm nhập vào Việt Nam 'ngọt nhuyễn' và không xảy ra một cú sốc nào.
Đó là vì Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập vào văn hóa dân tộc, hòa quyện với tín ngưỡng bản địa, tập quán thờ cúng ông bà và tục thờ những người có công với nước.
Tôi từng thấy nhiều chùa chiền ở miền Bắc ngoài thờ Phật còn ban thờ tiên công, tiểu đồng, ban cô, ban cậu hay thờ những vị anh hùng dân tộc như Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo...
Từ đó, Phật giáo gắn sâu và quyện chặt vào văn hóa Việt Nam như một phần máu thịt.
Hai triều đại đỉnh cao trong lịch sử dân tộc là Lý, Trần là cũng là thời kỳ Phật giáo Việt Nam hưng thịnh nhất.
Lý Thái Tổ được dưỡng nuôi từ dưới mái chùa; Thiền sư Vạn Hạnh là bậc quốc sư tài trí vẹn toàn; Trần Thái Tông viết 'Khóa hư lục'; Trần Nhân Tông sau khi bình giặc lên Yên Tử khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm.
Ông 'Bụt' (tức Buddha) đã đi vào tiềm thức dân gian. Chùa chiền đi vào ca dao tục ngữ và thậm chí có câu nói trong Kinh Phật như ‘Hằng hà sa số’ (nhiềunhư số cát sông Hằng) đã trở thành lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân tộc.

Đường hướng trái nhau

Tuy nhiên, truyền thống đó của cha ông có thời đã bị tàn phá nhân danh ‘tư tưởng tiến bộ’.
Có những vùng ở Bắc Trung Bộ xóa trắng không còn một mái chùa trong khi có những ngôi chùa ở miền Bắc có hòm công đức nhưng không có nhà sư hoặc có những nhà sư mà tôi nghi ngờ không biết có thuộc câu Kinh Phật nào không.
Vài Giáo hội trong thời đại mới ngoài ‘Phật pháp – Dân tộc’ còn có thêm ‘Chủ nghĩa xã hội’.
Đành rằng chọn tôn chỉ thế nào là quyền của Giáo hội nhưng không thể đặt cạnh nhau hai đường hướng trái nhau.
Phật đâu dạy con người dùng bạo lực đấu tranh tiêu diệt người khác? Và dù giáo lý là ‘Không’ nhưng Phật dạy đừng chấp ‘Không’ và cũng không chấp ‘Có’ vì chỉ khi thoát ra được sự kiềm hãm của ‘Chấp’ con người mới đến được chân lý. Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội là ‘chuyên chính vô sản’ nên cố chấp lý thuyết của mình là duy nhất đúng.
Tôi nhớ từng nghe trên sóng phát thanh ở Việt Nam câu chuyện một 'nhà sư' kể về việc 'khoác chiến y theo Đảng đi giết giặc'.
Mặc dù bảo vệ non sông là nghĩa vụ của mỗi người dân nhưng cách tuyên truyền như vậy không những phản cảm mà còn ngụ ý rằng cho dù Trời Phật gì cũng không bằng Đảng.
Điều lạ lùng là chủ nghĩa Marx-Lenin đả phá tôn giáo nhưng các Đảng Cộng sản trên thế giới đều có xu hướng thần thánh hóa lãnh tụ để người dân tôn thờ, ướp xác đưa vào lăng giống như đền thờ và đề cao ‘bản lĩnh chính trị’, kiểu như ‘Đức tin’, để đảm bảo mọi người luôn tin tưởng tuyệt đối.

Đức tin tôn giáo

Tuy nhiên phải hiểu rằng ngoài sự tin tưởng, ‘Đức tin’ trong các tôn giáo còn là lòng tôn kính đối với Đấng Tối cao. Lòng tôn kính đó là tình cảm hết sức thiêng liêng đáng được trân trọng.
Và khi Đức tin đó được hàng tỷ người tin theo, như Công giáo hay Hồi giáo, thì chứng tỏ nó phù hợp tình cảm con người, thể hiện những gì tốt đẹp ở con người và đem lại lợi lạc cho họ.
Đó là chưa kể những Đức tin đó đều hướng con người ta sống hiền lành, lương thiện nên có khả năng cải biến xã hội.
Để giữ đạo đức xã hội thì có những cái mà luật pháp không làm được nhưng tôn giáo lại làm được, chẳng hạn những điều cấm của Hồi giáo rất nghiêm ngặt nhưng tín đồ vẫn nhất nhất nghe theo.
Cho nên mới nói sự suy đồi đạo đức của xã hội ngày nay chắc gì không có liên hệ với việc tôn giáo suy vi sau nhiều năm bị kìm hãm hay tàn phá?
Tôi từng thấy cảnh bà cụ đầu tóc bạc phơ thành kính quỳ trước giáo đường và tôi tin rằng khi có niềm tin vào Đấng Tối cao như thế họ sẽ không thể làm điều ác.
Tôi cũng từng gặp những người Hồi giáo ở Indonesia hiền lành, nhân hậu, sống chan hòa với các tôn giáo khác.
Và trong Phật giáo, dù không có ‘Đức Tin’ vào Đấng Toàn năng nào nhưng trong mắt các Phật tử thì Đức Phật chính là Đấng Tối cao.
Điều đó cho thấy bản chất con người muôn đời vẫn yếu đuối và họ cần chỗ dựa tinh thần đến mức nào, nhất là trong những lúc nguy nan, khủng hoảng tinh thần nhất.

Làm chủ niềm tin

Chỗ dựa đó giúp con người vững vàng trong cuộc sống. Và khi có chỗ dựa, họ có xu hướng gắn chặt linh hồn vào đó và sẵn sàng sống chết vì nó.
Tuy nhiên, suy cho cùng, tôn giáo tồn tại trong xã hội loài người chính là để phục vụ con người.
Cái nguy ở chỗ khi linh hồn bị chiếm lĩnh thì con người có thể bị sai khiến làm gì cũng làm ngay cả đó là việc trái với lương tri – giống như những kẻ Hồi giáo cực đoan giết người vô tội không gớm tay chỉ vì tin rằng đó là ý Thượng Đế.
Cho nên, điều cần thiết là tín đồ sống theo Đức Tin nhưng đôi khi phải tỉnh táo biết làm chủ niềm tin của mình.
Về phần mình, không chỉ là chỗ dựa tinh thần, không chỉ là nguyên tắc đạo đức để sống tốt, Phật giáo còn là hệ thống triết lý về vũ trụ, nhân sinh mà Đức Phật đã truyền dạy trong hơn 40 năm thuyết pháp.
Giữa dòng đời biến động và cuộc sống đầy sức ép, hiểu quy luật vạn vật và thực hành Phật pháp giúp con người buông xả và hóa giải những năng lượng xấu như giận dữ, đố kỵ, ích kỷ để đạt cảm giác an lạc như lời Đức Phật dạy: ‘Tâm buồn khổ như con rắn dưới gầm giường’.
Hiểu Phật pháp cũng giúp con người có cái nhìn rộng lớn hơn về thế giới để hòa hợp với thế giới, chẳng hạn chữ Hiếu theo đạo Phật là hiếu với cả bảy đời, hiểu chữ ‘chúng sinh’ là tất cả đều có sự sống quý giá hay biết rằng ‘các vật hữu tình’, kể cả động vật, đều có tình cảm.
Dù tăng chúng ngày nay có chỗ suy vi, nhưng nhiều người mong rằng đó chỉ là những mảng tối nhỏ nhoi trên nền trời tươi sáng./.


TIẾN SĨ NGƯỜI VIỆT TRỊNH HỮU PHƯỚC THÀNH CÔNG TẠI NASA
Tiến sĩ Trịnh Hữu Phước, trưởng nhóm nghiên cứu và chế tạo động cơ tên lửa đẩy cho NASA, vừa có đóng góp quan trọng trong bước đường chinh phục không gian của cơ quan này.
Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) vừa thông báo đã hoàn tất bước chuẩn bị quan trọng trong kế hoạch thám hiểm mặt trăng mới. Theo đó, Trung tâm Phi hành không gian Marshall của NASA đã hợp tác với một số cơ quan khác hoàn thành một loạt thử nghiệm động cơ tên lửa đẩy. Những cuộc thử nghiệm này sẽ đóng vai trò hỗ trợ trong việc điều khiển và đáp thế hệ robot đổ bộ (RLL), vốn là thiết bị chuyên dụng để thám hiểm bề mặt mặt trăng và các thiên thể không có sự sống khác, theo Nasa.gov.
Chuyên gia Trịnh Hữu Phước lấy bằng đại học về kỹ sư công nghệ vũ trụ tại Đại học Missouri-Rolla vào năm 1985; bằng cao học năm 1987; bằng tiến sĩ về kỹ sư cơ khí tại Đại học Alabama vào năm 2004. Vợ chồng ông có 3 con gái.
Ông Trịnh Hữu Phước 48 tuổi, ông là người không ngừng nỗ lực để góp phần biến giấc mơ chinh phục không gian của con người trở thành sự thật. Sau khi rời Việt Nam vào năm 1979, chàng trai 16 tuổi gốc Bạc Liêu, đã trải qua nhiều khó khăn nơi xứ lạ nhưng vẫn quyết tâm theo đuổi chuyên ngành kỹ sư công nghệ vũ trụ tại Đại học Missouri-Rolla. Thời điểm nhận bằng cao học cũng là lúc ông bắt đầu làm việc tại NASA với vai trò chuyên gia phân tích thành phần động cơ tên lửa đẩy. Kinh nghiệm tích lũy trong nhiều năm ở vị trí này đã cung cấp nền tảng vững chắc cho tiến sĩ Trịnh Hữu Phước có được vị trí chủ chốt tại NASA.
Thành quả chủ chốt
Kể từ lần thám hiểm mặt trăng cuối cùng vào năm 1972, gần đây, NASA mới bắt tay nghiên cứu chế tạo những thiết bị mới để phục vụ cho hành trình trở lại “thăm” chị Hằng. Trọng tâm của những nghiên cứu trên là phát triển các thế hệ robot mới có thể thay thế con người đổ bộ lên mặt trăng, kế đến là sao Hỏa và thậm chí cả tiểu hành tinh. Với mục tiêu nhanh chóng quay lại mặt trăng và thực hiện những cuộc khảo sát chi tiết trên bề mặt thiên thể này, NASA đã chọn đề án phát triển RLL, và điều đáng lưu ý là một nhà khoa học gốc Việt, tiến sĩ Trịnh Hữu Phước, đã được chọn làm trưởng nhóm nghiên cứu và chế tạo 2 động cơ tên lửa đẩy nhằm hỗ trợ RLL đáp. Trong đó, một loại dùng nhiên liệu lỏng để điều khiển phi thuyền trong lúc bay và đáp xuống mặt trăng, một loại dùng nhiên liệu đặc để tạo phản lực làm giảm tốc độ của phi thuyền trước khi đáp.
Theo NASA, chương trình thử nghiệm 2 động cơ tên lửa đẩy do nhóm của tiến sĩ Trịnh Hữu Phước chế tạo đã thỏa mãn những mục tiêu đề ra ban đầu. Ban thẩm định đã đánh giá sự ổn định khoang đốt, hiệu quả và khả năng của động cơ đẩy cũng như việc nhiên liệu được đốt cháy đều đặn trong suốt thời gian dài khi hoạt động hết công suất. Bản thân tiến sĩ Phước tự nhận xét: “Những nghiên cứu trên cho thấy khả năng đốt cháy ổn định trong mọi hoàn cảnh của động cơ”. Thành công này sẽ cho phép dự án chế tạo robot đổ bộ được chuyển sang giai đoạn thiết kế phi thuyền sử dụng công nghệ động cơ đẩy tiên tiến.
Chia sẻ kinh nghiệm về việc chuẩn bị kiến thức cho công việc đầy thú vị tại NASA, tiến sĩ Phước cho hay môn học mà ông cảm thấy cần thiết nhất là Vật lý cơ bản ở năm 2 đại học. Môn học này đã cung cấp cho ông cái nhìn tổng quát và đầy đủ về mọi quy tắc của vật lý căn bản, nền tảng của mọi khóa học về kỹ sư sau này. Riêng về lĩnh vực động cơ tên lửa, ông cho hay quá trình thám hiểm sâu rộng về vũ trụ khiến các thiết bị tên lửa phải hoạt động suốt thời gian dài và trong môi trường cực kỳ khắc nghiệt. Vì thế mà những thiết bị đó phải thật sự đáng tin cậy và có hiệu quả cao. Theo ông, các sinh viên ngành công nghệ vũ trụ phải liên tục cập nhật kiến thức mới nhất và liên hệ các môn học với nghiên cứu thực tế.
Vào tháng 5 vừa qua, tiến sĩ Trịnh Hữu Phước đã được NASA trao huy chương về những đóng góp xuất sắc, lâu dài của ông cho kỹ thuật tên lửa và những ứng dụng kỹ thuật mới cho phi thuyền đổ bộ. Vợ của ông là tiến sĩ Võ Thị Diệp, đồng hương Bạc Liêu, hiện là kỹ sư vật liệu cấu trúc, sáng chế và thử nghiệm vật liệu dùng cho động cơ tên lửa nhiên liệu đặc của tàu con thoi cho NASA.


Phỏng vấn bà Dương Nguyệt Ánh
 
Dương Nguyệt Ánh

Bà Dương Nguyệt Ánh, đứng đầu một toán khoa học gia Mỹ, đã phát minh một loại chất nổ mới dùng trong việc chế tạo ra loại bom 'áp nhiệt' có khả năng diệt các hầm ngầm hay hang động sâu trong lòng núi mà quân đội Hoa Kỳ sử dụng trong cuộc chiến Afghanistan.
Bà Ánh cho biết từ lúc mới còn là khái niệm, toán khoa học gia dưới sự điều động của bà đã hoàn thành bom thermobaric tạm dịch là bom 'áp nhiệt' trong một thời gian kỷ lục là 67 ngày.
Khi được Xuân Hồng hỏi là võ khí tạo ra hòa bình hay chỉ tạo ra chiến tranh, bà Dương Nguyệt Ánh nói : "Chiến tranh hay hòa bình là quyết định của con người, còn võ khí chỉ là phương tiện như trăm ngàn phương tiện khác mà thôi".
Bà Ánh nói tiếp: "Nếu bảo rằng không nên chế tạo hoặc phát triển võ khí, thì chẳng khác nào bảo rằng một quốc gia ưa chuộng hòa bình không cần có quân đội".
Bà Dương Nguyệt Ánh đã được chính phủ Hoa Kỳ trao tặng huy chuơng ' National Security Medal' hồi năm 2007 vì công trình phát minh ra loại chất nổ mới này.
Dân chủ
Trên cương vị một công dân Mỹ gốc Việt, bà Ánh cho biết bà quân tâm đến các diễn biến trong xã hội của của nước mẹ đẻ và nước đã cho bà và gia đình "cơ hội thứ nhì để lập lại cuộc sống.
Bà tự nhủ phải đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phồn vinh và bình an của quê hương mới và để tạo điều kiện cho thế hệ con cháu cũng sẽ được sống tự do và hạnh phúc như mình, do đó, bà "rất quan tâm về tệ nạn khủng bố hiện nay".
Trên cương vị một người Mỹ gốc Việt, bà Ánh cho biết : "Lúc nào cũng quan tâm tới 85 triệu người đồng hương đang sống dưới sự thống trị của đảng Cộng Sản Việt Nam, không có tự do, nhân quyền"
Bà hy vọng "Chính quyền Việt Nam đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của cá nhân, của đảng để cho Việt Nam được tiến bộ và phú cường"
Nhìn vào Việt Nam, bà Ánh nói : "Điều tôi lo nhất là hiểm họa mất nước trước ý đồ rất rõ ràng của Trung Quốc muốn xăm lăng Việt Nam"
Cao trào dân chủ khắp thế giới, theo bà Ánh là " Một điều đáng mừng vì sẽ ảnh hưởng đến suy nghĩ của giới trẻ Việt Nam giúp cho họ tự hỏi là tại sao quê hương vẫn không giàu, khôg mạnh, không tiến bộ như những nước láng giềng".
Bà Ánh nói rằng " Một ngày nào đó, giới trẻ Việt Nam sẽ đứng lên đòi hỏi dân chủ và đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa cho Việt Nam.
Kinh nghiệm
Bà Ánh nói : "Không có sự thành công nào mà không có sự giúp đỡ của người khác, do đó, nếu mình thành công, thì mình phải nhớ ơn những người đã giúp đỡ mình, và cách nhớ ơn hay nhất là mình phải giúp đỡ những người đi sau mình".
Bà Ánh nói tiếp: "Khả năng sáng tạo có thể được thi thố trong bất cứ môi trường nào, không cứ phải là văn chương, mà khoa học kỹ thuật cũng là môi trường để phát huy khả năng sáng tạo".
"Trong trường hợp của tôi, nghiên cứu khoa học kỹ thuật là sáng tạo vì tôi đã áp dụng các nguyên tắc khoa học để sáng tạo ra môt cái gì mới"
"Không phải học giỏi là yếu tố duy nhất đưa đến thành công, vì 20% là óc, 60% là mồ hôi còn lại là trái tim ".
Bà Ánh khẳng định "tài phải đi đôi với đức mới đưa đến thành công".
Dương Nguyệt Ánh rời Việt Nam hồi năm 1975, khi còn là một nữ sinh 15 tuổi mới học lớp 9 trường Lê Quý Đôn, Sàigòn, để cùng gia đình sang tỵ nạn tại Hoa Kỳ, với số vốn tiếng Anh chỉ có ' vỏn vẹn 50 từ '.
Bà đã nghe theo lời thân phụ để theo học khoa học, mặc dù ôm giấc mộng theo văn chương từ tấm bé.
Bà Ánh tốt nghiệp trường đại học Maryland với hai bằng B.S. về hóa học và khoa học điện toán. Đến năm 1983, bà bắt đầu làm kỹ sư hóa học tại trung tâm nghiên cứu võ khí diện địa thuộc Hải quân Hoa Kỳ.
Bài báo của Lý Quang Diệu rất hay, xin giới thiệu với các bạn.

Lý Quang Diệu: “Chỉ có kẻ ngu mới chống Hoa Kỳ”


Mỹ nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số một
Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lý là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.
Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin , Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này
Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam . (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.
Ví dụ như Việt Nam , là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam . Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.
Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại IraqAfghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ
Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge ). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.
Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.
Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.
Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.
Lý Quang Diệu
Thứ Sáu, ngày 30 tháng 5 năm 2014
Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp