Phật
giáo VN giữa dòng đời biến động
Ngày nay có những người
xưng là đệ tử Phật gia nhưng hám mùi tiền, tham danh lợi, có cuộc sống đầy
đủ tiện nghi không khác chi hàng quyền quý.
Đã bước chân vào chốn
'Không Môn' chắc hẳn các vị ấy đều biết câu 'vô thường', 'giả tướng'?
Nếu không dứt được cái
tâm vọng tưởng đối với sự vật hiện tượng thì sẽ dẫn đến u sầu, đau khổ khi
mọi việc không được như ý.
Có sinh tất có diệt, có
thành ắt có hoại, có hợp rồi sẽ tan, các vị tu hành có nghiên cứu kinh điển đều
biết rằng vạn vật, từ thân thể cho đến của cải vật chất, đều là tổng hòa các
mối nhân duyên. Đủ duyên sinh thì sẽ tạo, duyên diệt đến thì sẽ tiêu.
Thành ra các vị ấy mang
tiếng tu hành mà nguyên lý căn bản nhất của nhà Phật cũng không biết thì chẳng
qua chỉ là lợi dụng cửa thiền cho lợi ích riêng mình mà thôi.
Suy cho cùng, tu theo
Phật pháp là cả quá trình luyện tâm rèn trí - giống như thuần hóa con trâu
dữ. Bước vào cửa Không, từ bi không là chưa đủ mà còn phải có trí tuệ và dũng
khí nữa.
Cần trí tuệ để nhìn
thấu vạn vật và có dũng khí để không bị sức hút của vật chất. Khi đó mới có
thể 'tinh tấn' đi trên con đường Đức Phật đã chỉ sẵn.
Cho nên cửa Phật thích
hợp với những bậc tâm chánh trí sáng, bản lĩnh hơn người và tự giác buông bỏ
để đi tìm sự giải thoát như Đức Vua Trần Nhân Tông hơn là với những người vì
buồn chuyện tình duyên hay vì bất đắc chí mà tìm đến cửa Thiền để trốn tránh
và càng không phải là chỗ cho những người còn ham muốn tiền bạc tiện nghi và
chưa thoát được vòng tục lụy.
Ít bậc
chân tu?
Từ ngàn xưa đến nay kẻ
xuất gia thì nhiều nhưng mấy ai tu thành chánh quả?
Đại đa số chúng ta đều
xoay vần trong cuộc sống hàng ngày nên không có cái nhìn vượt lên vòng sinh tử
và càng không đủ sức thoát ra khỏi cuộc sống mình đã gắn chặt.
Người phát tâm tu hành
thật sự là người hiểu được quy luật 'Sinh, Lão, Bệnh, Tử' của cái bàn cờ
cuộc đời mà họ bị ném vào mà có vũng vẫy cách mấy cũng không thoát ra được.
Có ai sinh ra muốn mình
sẽ già? Nhưng rồi ai cũng sẽ suy nhược đuối sức. Có ai muốn mình sẽ bệnh?
Nhưng rồi có lúc sẽ đau đớn thể xác để rồi sức tàn lực kiệt. Có ai chịu nổi
cảnh sinh ly tử biệt? Nhưng rồi cũng đến lúc phải vĩnh viễn rời xa những người
thương yêu nhất mà không gì có thể níu kéo được!
Những bậc tu hành nắm
rõ những điều này hơn ai hết. Từ đó họ sẽ có tâm thanh thản, bình an. Họ sẽ
chẳng bận lòng có ít hay nhiều fan trên Facebook như vị trụ trì ở Hải Dương
kia hay cũng chẳng quan trọng gì những lời cay nghiệt nếu mình không làm gì
sai.
Và những người chân tu
sẽ có tinh thần lạc quan, bình thản như mặt nước hồ trong không gợn sóng trước
dòng đời biến động, giống như Mãn Giác thiền sư: "Xuân qua trăm hoa rụng
- Xuân tới trăm hoa cười - Trên đầu việc đi mãi - Trước mắt già đến rồi".
Suy giảm
niềm tin?
Nhưng nói gì thì nói,
những vụ tai tiếng liên tục của các vị tăng ni vừa qua đã ít nhiều ảnh hưởng
đến niềm tin vào đạo Phật nói chung trong công chúng.
Tuy nhiên, Đức Phật đã
nói đừng tin lời Ngài mà hãy thực hành. Thực hành hiệu quả mới tin.
Đức Phật từng nói khi
thành đạo: "Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành."

Vườn
Lâm Tỳ Ny ở Nepal
nơi Đức Phật đản sanh.
Tức là Đức Phật cũng
chỉ là người bình thường như mọi người nhưng là người đã tìm ra con đường giải
thoát để chỉ dẫn chúng sinh và Ngài tin tưởng ai cũng có thể làm được như Ngài.
Ngài không phải bậc
quyền năng, và pháp của Ngài, do đó, cũng không dựa trên những điều huyễn
hoặc.
Con người đến với tôn
giáo phần lớn là để tìm chỗ dựa tinh thần, nhưng với việc 'phải thực hành thì
mới tin' thì các Phật tử chỉ có thể dựa vào chính bản thân mình mà thôi.
Và nếu họ làm theo mà
thấy hiệu quả thì dù người khác có làm sao hoặc có nói thế nào cũng không làm
cho họ hết tin được.
Do Phật giáo không dạy
về chữ 'Tin' mà chỉ là phương tiện để giúp con người thoát khổ nên sức mạnh
của Phật giáo nằm ở Pháp chứ không phải số lượng tín đồ. Có thêm người theo,
Đức Phật cũng chẳng mạnh thêm và bớt đi tín đồ cũng không làm cho Pháp của
Ngài yếu đi.
Chính vì vậy Phật giáo
không có các điều luật ràng buộc tín đồ và cũng không có nhu cầu tổ chức
chặt chẽ và không xem việc truyền đạo là yếu tố sống còn.
Dĩ nhiên với tính chất
và tổ chức như vậy thì những ai hướng đến Phật chỉ bằng niềm tin thì niềm tin
đó ít nhiều sẽ bị lung lay trước sự xuống cấp của hàng tăng chúng. Còn những ai
hiểu và thực hành chánh pháp thì chẳng ảnh hưởng gì.
Không còn
hưng thịnh
Ít nhất Phật giáo Việt
Nam ngày nay đã không còn hưng thịnh như xưa.
Được truyền đầu tiên từ
Ấn Độ, Phật giáo thời sơ khởi ở Việt Nam đã phát triển đến mức có vị cao
tăng được nước Đông Ngô thời Tam Quốc bên Trung Quốc mời sang giảng đạo.
Qua đường giao lưu văn
hóa, Phật giáo thâm nhập vào Việt Nam 'ngọt nhuyễn' và không xảy ra một cú
sốc nào.
Đó là vì Phật giáo đã
nhanh chóng hòa nhập vào văn hóa dân tộc, hòa quyện với tín ngưỡng bản địa,
tập quán thờ cúng ông bà và tục thờ những người có công với nước.
Tôi từng thấy nhiều chùa
chiền ở miền Bắc ngoài thờ Phật còn ban thờ tiên công, tiểu đồng, ban cô, ban
cậu hay thờ những vị anh hùng dân tộc như Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo...
Từ đó, Phật giáo gắn
sâu và quyện chặt vào văn hóa Việt Nam như một phần máu thịt.
Hai triều đại đỉnh cao
trong lịch sử dân tộc là Lý, Trần là cũng là thời kỳ Phật giáo Việt Nam hưng
thịnh nhất.
Lý Thái Tổ được dưỡng
nuôi từ dưới mái chùa; Thiền sư Vạn Hạnh là bậc quốc sư tài trí vẹn toàn; Trần
Thái Tông viết 'Khóa hư lục'; Trần Nhân Tông sau khi bình giặc lên Yên Tử khai
sáng dòng Thiền Trúc Lâm.
Ông 'Bụt' (tức Buddha)
đã đi vào tiềm thức dân gian. Chùa chiền đi vào ca dao tục ngữ và thậm chí có
câu nói trong Kinh Phật như ‘Hằng hà sa số’ (nhiềunhư số cát sông Hằng) đã trở
thành lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân tộc.
Đường hướng
trái nhau
Tuy nhiên, truyền thống
đó của cha ông có thời đã bị tàn phá nhân danh ‘tư tưởng tiến bộ’.
Có những vùng ở Bắc
Trung Bộ xóa trắng không còn một mái chùa trong khi có những ngôi chùa ở miền
Bắc có hòm công đức nhưng không có nhà sư hoặc có những nhà sư mà tôi nghi ngờ
không biết có thuộc câu Kinh Phật nào không.
Vài Giáo hội trong thời
đại mới ngoài ‘Phật pháp – Dân tộc’ còn có thêm ‘Chủ nghĩa xã hội’.
Đành rằng chọn tôn chỉ
thế nào là quyền của Giáo hội nhưng không thể đặt cạnh nhau hai đường hướng
trái nhau.
Phật đâu dạy con người
dùng bạo lực đấu tranh tiêu diệt người khác? Và dù giáo lý là ‘Không’ nhưng
Phật dạy đừng chấp ‘Không’ và cũng không chấp ‘Có’ vì chỉ khi thoát ra được sự
kiềm hãm của ‘Chấp’ con người mới đến được chân lý. Trong khi đó, chủ nghĩa xã
hội là ‘chuyên chính vô sản’ nên cố chấp lý thuyết của mình là duy nhất đúng.
Tôi nhớ từng nghe trên
sóng phát thanh ở Việt Nam câu chuyện một 'nhà sư' kể về việc 'khoác chiến
y theo Đảng đi giết giặc'.
Mặc dù bảo vệ non sông
là nghĩa vụ của mỗi người dân nhưng cách tuyên truyền như vậy không những phản
cảm mà còn ngụ ý rằng cho dù Trời Phật gì cũng không bằng Đảng.
Điều lạ lùng là chủ
nghĩa Marx-Lenin đả phá tôn giáo nhưng các Đảng Cộng sản trên thế giới đều có
xu hướng thần thánh hóa lãnh tụ để người dân tôn thờ, ướp xác đưa vào lăng
giống như đền thờ và đề cao ‘bản lĩnh chính trị’, kiểu như ‘Đức tin’, để đảm
bảo mọi người luôn tin tưởng tuyệt đối.
Đức tin tôn
giáo
Tuy nhiên phải hiểu rằng
ngoài sự tin tưởng, ‘Đức tin’ trong các tôn giáo còn là lòng tôn kính đối với
Đấng Tối cao. Lòng tôn kính đó là tình cảm hết sức thiêng liêng đáng được trân
trọng.
Và khi Đức tin đó được
hàng tỷ người tin theo, như Công giáo hay Hồi giáo, thì chứng tỏ nó phù hợp
tình cảm con người, thể hiện những gì tốt đẹp ở con người và đem lại lợi lạc
cho họ.
Đó là chưa kể những Đức
tin đó đều hướng con người ta sống hiền lành, lương thiện nên có khả năng cải
biến xã hội.
Để giữ đạo đức xã hội
thì có những cái mà luật pháp không làm được nhưng tôn giáo lại làm được,
chẳng hạn những điều cấm của Hồi giáo rất nghiêm ngặt nhưng tín đồ vẫn nhất
nhất nghe theo.
Cho nên mới nói sự suy
đồi đạo đức của xã hội ngày nay chắc gì không có liên hệ với việc tôn giáo
suy vi sau nhiều năm bị kìm hãm hay tàn phá?
Tôi từng thấy cảnh bà cụ
đầu tóc bạc phơ thành kính quỳ trước giáo đường và tôi tin rằng khi có niềm tin
vào Đấng Tối cao như thế họ sẽ không thể làm điều ác.
Tôi cũng từng gặp những
người Hồi giáo ở Indonesia
hiền lành, nhân hậu, sống chan hòa với các tôn giáo khác.
Và trong Phật giáo, dù
không có ‘Đức Tin’ vào Đấng Toàn năng nào nhưng trong mắt các Phật tử thì Đức
Phật chính là Đấng Tối cao.
Điều đó cho thấy bản
chất con người muôn đời vẫn yếu đuối và họ cần chỗ dựa tinh thần đến mức nào,
nhất là trong những lúc nguy nan, khủng hoảng tinh thần nhất.
Làm chủ
niềm tin
Chỗ dựa đó giúp con
người vững vàng trong cuộc sống. Và khi có chỗ dựa, họ có xu hướng gắn chặt
linh hồn vào đó và sẵn sàng sống chết vì nó.
Tuy nhiên, suy cho cùng,
tôn giáo tồn tại trong xã hội loài người chính là để phục vụ con người.
Cái nguy ở chỗ khi linh
hồn bị chiếm lĩnh thì con người có thể bị sai khiến làm gì cũng làm ngay cả đó
là việc trái với lương tri – giống như những kẻ Hồi giáo cực đoan giết người
vô tội không gớm tay chỉ vì tin rằng đó là ý Thượng Đế.
Cho nên, điều cần thiết
là tín đồ sống theo Đức Tin nhưng đôi khi phải tỉnh táo biết làm chủ niềm tin
của mình.
Về phần mình, không chỉ
là chỗ dựa tinh thần, không chỉ là nguyên tắc đạo đức để sống tốt, Phật giáo
còn là hệ thống triết lý về vũ trụ, nhân sinh mà Đức Phật đã truyền dạy trong
hơn 40 năm thuyết pháp.
Giữa dòng đời biến động
và cuộc sống đầy sức ép, hiểu quy luật vạn vật và thực hành Phật pháp giúp
con người buông xả và hóa giải những năng lượng xấu như giận dữ, đố kỵ, ích kỷ
để đạt cảm giác an lạc như lời Đức Phật dạy: ‘Tâm buồn khổ như con rắn dưới
gầm giường’.
Hiểu Phật pháp cũng
giúp con người có cái nhìn rộng lớn hơn về thế giới để hòa hợp với thế giới,
chẳng hạn chữ Hiếu theo đạo Phật là hiếu với cả bảy đời, hiểu chữ ‘chúng sinh’
là tất cả đều có sự sống quý giá hay biết rằng ‘các vật hữu tình’, kể cả động
vật, đều có tình cảm.
Dù tăng chúng ngày nay
có chỗ suy vi, nhưng nhiều người mong rằng đó chỉ là những mảng tối nhỏ nhoi
trên nền trời tươi sáng./.