Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

NHÓM DƯ LUẬN VIÊN

Nhóm gọi là "DLV" này gây rối tại các buổi lễ tưởng niệm là ai, có logo công an nếu là giả mạo sao công an không tóm cổ cánh này ngay tại hiện trường. Rất mong Công an Hà Nội điều tra sớm, làm rõ trắng đen. Trích bài đăng báo Thanh Niên online:

"Công an Hà Nội đang xác minh về lực lượng 'dư luận viên' tự phát

(TNO) Công an Hà Nội đang xác minh về lực lượng “dư luận viên” tự phát. Đây là thông tin được thiếu tướng Nguyễn Đức Chung, Giám đốc Công an Hà Nội cho biết tại cuộc giao ban của Thành ủy Hà Nội chiều nay 17.3.

du-luan-vienTheo thiếu tướng Nguyễn Đức Chung, các lực lượng được giao nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự đã tôn trọng việc thể hiện lòng yêu nước của người dân sáng 14.3 - Ảnh: Tr.Sơn
Trả lời câu hỏi của phóng viên Thanh Niên Online về việc một số thanh niên mặc áo phông màu đỏ trên có logo mô phỏng biểu trưng của ngành công an với dòng chữ “DLV - Đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc” xuất hiện tại khu vực Hồ Gươm ngày 14.3.2015, tướng Chung khẳng định đây là lực lượng tự phát.
Trước đó, vào ngày 14.3.2015, một bộ phận người dân đã tổ chức tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền tại quần đảo Trường Sa (14.3.1988).
Tại sự kiện này có xuất hiện một nhóm “dư luận viên” với trang phục như đã nêu trên. Nhóm thanh niên này đã có tranh cãi, xô đẩy với một số người tham gia tưởng niệm.
“Công an Hà Nội là lực lượng chủ công được giao nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn thủ đô. Chúng tôi luôn tôn trọng các hoạt động của người dân có lòng yêu nước đối với các sự kiện của đất nước, đặc biệt các sự kiện liên quan bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, các sự kiện tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ - những người đã bảo vệ chủ quyền thiêng liêng đất nước”, tướng Chung khẳng định.
Giám đốc Công an Hà Nội cũng xác nhận việc ngày 14.3.2015, một số người dân yêu nước đã tham gia đặt lẵng hoa tại tượng đài Lý Thái Tổ, tượng đài Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh tại khu vực Hồ Gươm. “Công an Hà Nội và các lực lượng được giao nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự đã tôn trọng việc thể hiện lòng yêu nước của người dân trong sáng 14.3”, ông Chung nói.
Theo ông Chung, trong buổi sáng ngày 14.3 ông đã có mặt trực tiếp chỉ đạo lực lượng công an bảo đảm an ninh trật tự tại khu vực Hồ Gươm.
“Ngay bản thân tôi là người trực tiếp quan sát tôi cũng đã yêu cầu các lực lượng đó giải tán, sau khi chúng tôi tuyên truyền, những thanh niên này đã tản đi. Tôi xin khẳng định đây không phải lực lượng do Thành ủy, Ban Tuyên giáo hay Công an tổ chức. Việc họ đem áo có hình logo, Công an Hà Nội sẽ xác minh và công bố với báo chí trong lần giao ban tới”, ông Chung khẳng định.
Chủ trì giao ban, ông Phan Đăng Long, Phó trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội cho hay Hà Nội có khoảng 900 cộng tác viên dư luận. Ông Long cho biết thông tin này đã được ông Hồ Quang Lợi, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy cho biết tại một hội nghị tổng kết của ngành Tuyên giáo năm 2013.
Giải thích thêm về lực lượng “cộng tác viên dư luận”, ông Long cho biết đây là lực lượng cộng tác viên gồm nhiều tầng lớp, thành phần, như cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên, học sinh... tại các địa bàn quận, huyện nắm bắt các thông tin “người dân bàn cái gì, quan tâm cái gì” rồi tập hợp, thông tin lại cho hệ thống tuyên giáo.
Các thông tin này sau đó sẽ được ngành Tuyên giáo tổng hợp báo cáo lãnh đạo thành phố để nghiên cứu bổ sung, điều chỉnh các chính sách xã hội.
"Hôm nay các đồng chí nói chúng tôi mới biết có việc mặc áo logo như vậy. Tôi xin khẳng định lực lượng cộng tác viên dư luận chỉ ngồi nghe nắm bắt dư luận thông tin chứ hoàn toàn không xuống đường”, ông Long khẳng định.
                                                                                                                                                           Trường Sơn"

Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015

TRUYỆN NGẮN CỦA VÕ HỒNG

Võ Hồng
                                     Một Bông Hồng Cho Cha


Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gủi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần.
Con người sau này thì không. Cha săn sóc mẹ khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay mẹ pha bình sữa, giặt giũ tã lót khi cha mẹ cùng nghèo. Khi cúng đầy tháng, cha châm hương đốt đèn thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khắp thần linh phù hộ cho con mau ăn, chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng đại nhất trong đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà tin, mà khấn, mà cầu... cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận.
Con lên hai tháng, ba tháng, nằm ngửa huơ tay huơ chân, mở to đôi mắt ngơ ngác, xoay đầu nhìn vu vơ sang trái sang phải. Rồi con biết hé miệng cười, cái cười vô nghĩa nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là nụ cười của con làm nở những nụ cười xung quanh, làm rạng rở những khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi trán. Lần lượt biết lật, biết bò... rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn ràng đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha.
Cha được phân công ngồi bón cho con những muỗng cơm đầu tiên, cha phải la: "Ùi ùi! Coi chừng con chuột kìa. Ăn mau chớ nó ăn hết," rồi thừa lúc con đưa mắt tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng. Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành nhảm nhí đáng thương. Con mới mở miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã vội vàng ru, ru cái kiểu nửa ngâm, nửa hát vụng về và chọn những câu nhảm nhí phù hợp với trạng thái tâm hồn của cha lúc đó.
À ơi, con gà cục tác lá chanh...
Có thể cha giỏi nhạc, cha hát hay nhưng cha ngượng không dám nghiêm trang cất giọng sợ người khác nghe biết cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả chăng mặt con ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để làm chi? Cha phải ngây ngô theo, con duỗi chân thì cha nói: "Chà! Bộ định về thăm ngoại hả?" Rờ cái đít nung núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng: "À, con heo ú đây? Ai ra mua!" Quả là những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng phải chợt dừng lại. Sợ người khác nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ rằng mình không tầm thường. Khi có học, cha thường phải tạo vẻ mặt nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là nghiêm đường. Hai mươi tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh lùng của một ông quan. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn, năm tuổi đi chơi nghêu ngao khắp xóm, bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên cha con cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoai. Xã hội hôm nay trí thức hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai lo phần nấy, rốt cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn quýt cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ: quá bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn là bắt đầu xa cha. Từ đó cha chỉ đóng vai nguồn cung cấp tiền cho con ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại đưa lời chỉ bảo khuyên răn. Tất cả đều là lý trí lạnh lùng.
Chớ mẹ thì không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra: mẹ mang nặng đẻ đau, vạch vú cho bú, mẹ bồng ru ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng tập đi. Khỏi cần lý luận, khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi nhỏ mình nằm như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và me lo giặt, lo thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thúi. Với cha thì phải suy nghĩ mới thấy, bởi mọi sự thương yêu chỉ hiện rõ khi mình còn nhỏ. Bây giờ nếu may mà biết được là nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha nào đó đang thương yêu săn sóc đứa con nhỏ của họ.
Tìm trong văn chương thì thường chỉ gặp loại:
Công cha như núi Thái Sơn
Núi này nhất định là phải lớn lắm, và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi một nét cảm động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách, gợi sự tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản nhiên như đọc khẩu hiệu.
Người cha quen thuộc, cha của Mẫn Tử Khiên, thì được vẽ là một người biết làm bổn phận: bổn phận cưới vợ kế khi vợ cả chết và bổn phận đuổi kế thiếp vì Mẫn Tử Khiên bị ngược đãi. Mà cũng ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo rách run rẩy đẩy xe cho mình.
Người cha trong cuốn Luân Lý giáo khoa thư dễ thương hơn. Truyện kể: Mẹ đi chợ mua về cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng nắng nôi, liền cầm trái cam chay ra đồng tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi một vòng, dài và rộng hơn sợi dây tình cả con thương cha, rộng gấp ba lần vì thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương vợ.
Cổ văn thường nặng nghĩa lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yểm, tể tướng đời Tống, sai con là Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Ðến Ðan Dương, Nhân gặp Thạch Man Khanh là bạn cũ của cha đang khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập. Nhân đem tặng hết năm trăm thùng thóc. Lại nghe hai cô gái đến tuổi mà đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cho cha nghe. Nghe tới chỗ hai cô gái của bạn ế chồng. Phạm liền ngắt lời hỏi: "Sao con không cho luôn cái thuyền?"
Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của mẹ. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó làm mệt mỏi gân cốt và trí óc cha. Về đến nhà tìm sự yên nghỉ, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài xã hội về theo. Con phải len lén bỏ ra sau nhà, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của mỉnh. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy êm đềm. Ai làm ra tiền không cần biết, chỉ muốn nhai viên kẹo, muốn cắn trái ổi là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới... thảy thảy mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên Lôi; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát.
Không, cha không muốn vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công mỗi người mỗi việc. Mẹ như cọng mảnh, nhánh thấp cành gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như thân vững chắc, bám rễ thật chặt, hút nhựa nuôi lá, nuôi hoa, nuôi trái. Thân chĩa từng cành lớn đâm ngang, thân vươn những nhánh cao phủ trên đầu che mưa che nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lờn mẹ thì cha cần phải nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạt lòng, cha phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Ði vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại cha, tránh cha rồi xa cha là vậy.
Nhưng đừng đơn giản bất công, quên cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo thành bội bạc. Hãy nhìn những đứa ba tuổi làm nũng với cha. Bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt phải dắt ra cổng đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới ngủ. Lên tám, lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về. Trên đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn mặt tầm thường hay xấu xí.
Tuổi già chiếc bóng, mẹ dễ sống theo con, dâu, rể. Lúc thúc sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn mình theo nếp sống, mềm mỏng ung dung như nước. Thường cha thì không, cha ít cam khuất phục rể dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cố tránh trước cái giả bộ nặng tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể. Mẹ biết ý nên khi nhắm mắt vĩnh biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò: "Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu."
Phải, tuổi càng cao, khổ càng chồng chất, dâu rể không ăn hiếp thì có con muỗi, con kiến ăn hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đập đấy, chớ mắt mờ đâu còn thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm Bắc Ðẩu mà mới ngày nào lững thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con nhìn.
Con nay đang tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con, bè bạn, việc báo hiếu cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hững hờ chểnh mảng thì thiếu chi lý lẽ dẫn ra: "Ðược vậy còn đòi gì nữa?... Trời ơi, thì giờ đâu!"
Phải thì giờ đâu? Người xưa hay nhắc phận con kíp lo báo hiếu bởi "tử dục dưỡng nhi thân bất đãi" con muốn nuôi mà cha mẹ không chờ.
Khi con ở tuổi trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng thường rệu rã. Dễ hiểu thôi mà: một đồ vật dùng đã sáu chục năm rồi thì dẫu lạc quan đến đâu cũng chỉ có thể tạm nói: "Cũng còn khá." Cha thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Ðôi hồi bỗng mệt vô cớ. Nhưng cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn cần thiết, êm ái cho con nữa như khi con còn nhỏ. Bây giờ, những câu nói đều quấy rầy con. Ðành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường.
Sách xưa dạy: "Hôn định thần tỉnh," ta dịch: "Tối viếng sớm thăm," lạt lẽo nghèo nàn nếu không có người giảng cụ thể rằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn tay con, trước và sau giấc ngủ. Ðã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để khép bớt cánh cửa, để lấy cái mền, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy, trong mình có gì thay đổi, đó là lúc con cần hỏi han mẹ cha mới dám giãi bày.
Gần như mọi người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gửi con, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt.
Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thể đôi tháng gởi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dòng lược kể một chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần: "Ði đâu đó? Mạnh giỏi?" Sinh nhật cha, tặng một cành hoa. Nếu ở thành phố xa, hai ba đứa con gởi về hai, ba bức điện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vui tinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương?
Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ hội Bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Ðể tỏ lòng thương nghĩ đến cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn: nơ xanh. Cha mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha me song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn, cha mất: hoa hồng, nơ trắng. Mẹ mất, cha còn: hoa trắng, nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng, nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình.
Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường cùng khóc òa theo.
Cha cũng như mẹ, rồi một ngày: "Ðỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc" (Cha mẹ mãn phần) nên mỗi người con đều phải vội vàng. Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha thương con là "cho" chớ không phải "cho vay" để có thể gọi là trả đủ. Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gủi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần. Con người sau này thì không. Cha săn sóc mẹ khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay mẹ pha bình sữa, giặt giũ tã lót khi cha mẹ cùng nghèo. Khi cúng đầy tháng, cha châm hương đốt đèn thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khắp thần linh phù hộ cho con mau ăn, chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng đại nhất trong đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà tin, mà khấn, mà cầu... cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận. Con lên hai tháng, ba tháng, nằm ngửa huơ tay huơ chân, mở to đôi mắt ngơ ngác, xoay đầu nhìn vu vơ sang trái sang phải. Rồi con biết hé miệng cười, cái cười vô nghĩa nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là nụ cười của con làm nở những nụ cười xung quanh, làm rạng rở những khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi trán. Lần lượt biết lật, biết bò... rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn ràng đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha. Cha được phân công ngồi bón cho con những muỗng cơm đầu tiên, cha phải la: "Ùi ùi! Coi chừng con chuột kìa. Ăn mau chớ nó ăn hết," rồi thừa lúc con đưa mắt tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng. Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành nhảm nhí đáng thương. Con mới mở miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã vội vàng ru, ru cái kiểu nửa ngâm, nửa hát vụng về và chọn những câu nhảm nhí phù hợp với trạng thái tâm hồn của cha lúc đó. À ơi, con gà cục tác lá chanh... Có thể cha giỏi nhạc, cha hát hay nhưng cha ngượng không dám nghiêm trang cất giọng sợ người khác nghe biết cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả chăng mặt con ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để làm chi? Cha phải ngây ngô theo, con duỗi chân thì cha nói: "Chà! Bộ định về thăm ngoại hả?" Rờ cái đít nung núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng: "À, con heo ú đây? Ai ra mua!" Quả là những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng phải chợt dừng lại. Sợ người khác nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ rằng mình không tầm thường. Khi có học, cha thường phải tạo vẻ mặt nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là nghiêm đường. Hai mươi tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh lùng của một ông quan. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn, năm tuổi đi chơi nghêu ngao khắp xóm, bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên cha con cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoai. Xã hội hôm nay trí thức hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai lo phần nấy, rốt cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn quýt cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ: quá bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn là bắt đầu xa cha. Từ đó cha chỉ đóng vai nguồn cung cấp tiền cho con ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại đưa lời chỉ bảo khuyên răn. Tất cả đều là lý trí lạnh lùng. Chớ mẹ thì không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra: mẹ mang nặng đẻ đau, vạch vú cho bú, mẹ bồng ru ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng tập đi. Khỏi cần lý luận, khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi nhỏ mình nằm như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và me lo giặt, lo thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thúi. Với cha thì phải suy nghĩ mới thấy, bởi mọi sự thương yêu chỉ hiện rõ khi mình còn nhỏ. Bây giờ nếu may mà biết được là nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha nào đó đang thương yêu săn sóc đứa con nhỏ của họ. Tìm trong văn chương thì thường chỉ gặp loại: Công cha như núi Thái Sơn Núi này nhất định là phải lớn lắm, và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi một nét cảm động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách, gợi sự tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản nhiên như đọc khẩu hiệu. Người cha quen thuộc, cha của Mẫn Tử Khiên, thì được vẽ là một người biết làm bổn phận: bổn phận cưới vợ kế khi vợ cả chết và bổn phận đuổi kế thiếp vì Mẫn Tử Khiên bị ngược đãi. Mà cũng ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo rách run rẩy đẩy xe cho mình. Người cha trong cuốn Luân Lý giáo khoa thư dễ thương hơn. Truyện kể: Mẹ đi chợ mua về cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng nắng nôi, liền cầm trái cam chay ra đồng tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi một vòng, dài và rộng hơn sợi dây tình cả con thương cha, rộng gấp ba lần vì thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương vợ. Cổ văn thường nặng nghĩa lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yểm, tể tướng đời Tống, sai con là Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Ðến Ðan Dương, Nhân gặp Thạch Man Khanh là bạn cũ của cha đang khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập. Nhân đem tặng hết năm trăm thùng thóc. Lại nghe hai cô gái đến tuổi mà đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cho cha nghe. Nghe tới chỗ hai cô gái của bạn ế chồng. Phạm liền ngắt lời hỏi: "Sao con không cho luôn cái thuyền?" Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của mẹ. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó làm mệt mỏi gân cốt và trí óc cha. Về đến nhà tìm sự yên nghỉ, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài xã hội về theo. Con phải len lén bỏ ra sau nhà, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của mỉnh. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy êm đềm. Ai làm ra tiền không cần biết, chỉ muốn nhai viên kẹo, muốn cắn trái ổi là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới... thảy thảy mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên Lôi; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát. Không, cha không muốn vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công mỗi người mỗi việc. Mẹ như cọng mảnh, nhánh thấp cành gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như thân vững chắc, bám rễ thật chặt, hút nhựa nuôi lá, nuôi hoa, nuôi trái. Thân chĩa từng cành lớn đâm ngang, thân vươn những nhánh cao phủ trên đầu che mưa che nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lờn mẹ thì cha cần phải nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạt lòng, cha phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Ði vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại cha, tránh cha rồi xa cha là vậy. Nhưng đừng đơn giản bất công, quên cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo thành bội bạc. Hãy nhìn những đứa ba tuổi làm nũng với cha. Bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt phải dắt ra cổng đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới ngủ. Lên tám, lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về. Trên đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn mặt tầm thường hay xấu xí. Tuổi già chiếc bóng, mẹ dễ sống theo con, dâu, rể. Lúc thúc sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn mình theo nếp sống, mềm mỏng ung dung như nước. Thường cha thì không, cha ít cam khuất phục rể dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cố tránh trước cái giả bộ nặng tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể. Mẹ biết ý nên khi nhắm mắt vĩnh biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò: "Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu." Phải, tuổi càng cao, khổ càng chồng chất, dâu rể không ăn hiếp thì có con muỗi, con kiến ăn hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đập đấy, chớ mắt mờ đâu còn thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm Bắc Ðẩu mà mới ngày nào lững thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con nhìn. Con nay đang tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con, bè bạn, việc báo hiếu cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hững hờ chểnh mảng thì thiếu chi lý lẽ dẫn ra: "Ðược vậy còn đòi gì nữa?... Trời ơi, thì giờ đâu!" Phải thì giờ đâu? Người xưa hay nhắc phận con kíp lo báo hiếu bởi "tử dục dưỡng nhi thân bất đãi" con muốn nuôi mà cha mẹ không chờ. Khi con ở tuổi trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng thường rệu rã. Dễ hiểu thôi mà: một đồ vật dùng đã sáu chục năm rồi thì dẫu lạc quan đến đâu cũng chỉ có thể tạm nói: "Cũng còn khá." Cha thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Ðôi hồi bỗng mệt vô cớ. Nhưng cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn cần thiết, êm ái cho con nữa như khi con còn nhỏ. Bây giờ, những câu nói đều quấy rầy con. Ðành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường. Sách xưa dạy: "Hôn định thần tỉnh," ta dịch: "Tối viếng sớm thăm," lạt lẽo nghèo nàn nếu không có người giảng cụ thể rằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn tay con, trước và sau giấc ngủ. Ðã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để khép bớt cánh cửa, để lấy cái mền, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy, trong mình có gì thay đổi, đó là lúc con cần hỏi han mẹ cha mới dám giãi bày. Gần như mọi người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gửi con, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt. Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thể đôi tháng gởi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dòng lược kể một chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần: "Ði đâu đó? Mạnh giỏi?" Sinh nhật cha, tặng một cành hoa. Nếu ở thành phố xa, hai ba đứa con gởi về hai, ba bức điện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vui tinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương? Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ hội Bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Ðể tỏ lòng thương nghĩ đến cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn: nơ xanh. Cha mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha me song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn, cha mất: hoa hồng, nơ trắng. Mẹ mất, cha còn: hoa trắng, nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng, nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình. Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường cùng khóc òa theo. Cha cũng như mẹ, rồi một ngày: "Ðỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc" (Cha mẹ mãn phần) nên mỗi người con đều phải vội vàng. Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha thương con là "cho" chớ không phải "cho vay" để có thể gọi là trả đủ./.


MỘT TRUYỆN NGẮN HAY CỦA NGUYỄN TUÂN.

Nguyễn Tuân
Vang Bóng Một Thời
                                                       Hương cuội

Đứa cháu đích tôn và lũ cháu ngoại đang loay hoay ngoài sân với những đồ đồng ngũ sự lổng chổng trên đám trấu và tro đẫm nước.
Ông chúng, cụ Kép làng Mọc, cũng đang loay hoay với mấy chục chậu lan xếp thành hàng dưới giàn thiên lý.
Trái với thời tiết, buổi chiều cuối năm gió nồm thổi nhiều.
Cơn gió nồm thổi nhẹ, như muốn nhạo cái ông già kia mặc cả một tấm áo trấn thủ bằng lông cừu trắng. Trời nồm nực, bức đến tắm nước lã được, ông cụ Kép mặc áo lông cừu xứ Bắc! Không, đấy chỉ là một thói quen của cụ Kép. Mỗi khi cụ ra thăm vườn cảnh, trong một năm, trừ những ngày hạ ra không kể còn thì lúc nào cũng khoác tấm áo cừu. Mùa xuân, mùa thu, khí hậu ấm, áo mở khuy. Sang đến đông tuyết, cụ cài hết một hàng khuy nơi áo, thế là vừa. Trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng, lom khom tỉa những lá úa trong đám lá xanh. Cụ Kép nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý.
Buổi chiều ba mươi Tết năm nay, cả một cái gia đình cũ kỹ nhà cụ Kép đang tới tấp dọn dẹp để ăn tết.
Mợ ấm cả, mợ ấm hai ngồi lau lá dong chăm chỉ. Thỉnh thoảng họ ngừng tay để hỏi nhau xem còn thiếu những thực phẩm gì trong cái mâm cơm cúng chiều nay. Lũ con đàn bi bô ngoài sân. Chúng đang đánh bóng ở ngoài sân những lư, đỉnh, cây đèn nến bằng đồng mắt cua và bằng thiếc sông Ngâu. Chốc chốc, lũ trẻ lại mỉm cười, nghển những đầu thưa thớt ít sợi tóc tơ, nhìn vào phía trong nhà cầu, hỏi mẹ chúng:
- Bao giờ cậu mới về, hả mợ?
Không biết nên trả lời con trẻ thế nào cho tiện, mợ ấm cả đưa mắt cho mợ ấm hai.
Ông ấm cả và ông ấm hai, đi làm việc ở tận xa chưa thấy về ăn Tết. Cứ lời những người trong làng có người đi làm việc nhà nước thì được nghỉ những từ chiều hai mươi chín kia mà. Muốn được khuây nỗi mong, hai chị em dâu, người đã đứng tuổi, càng thái đồ nấu cỗ cho thực nhanh. Gớm, những miếng trứng tráng để bày mặt cỗ bát, thài hình miếng trám, sao mà đẹp thế. Đứng bên cạnh mẹ, đứa nhỏ nhất trong đàn con đã thủ thỉ van nài mợ ấm hai:
- Mợ cho con cái miếng mợ cắt hỏng kia nhá!
Người mẹ không nghỉ tay làm việc trên tấm thớt. Lừ mắt nhìn con. Thằng bé vội chạy ra ngoài, sán đến cạnh cụ Kép:
- Ông đang làm gì thế hở ông?
- ấy chết, cháu đừng mó vào hoa của ông. Ông đang thăm xem đúng hôm nào thì hoa của ông nở đủ.
- Ông cho cháu một cái... Cháu xin ông cái lá gẫy kia nhá!
- Cháu không nghịch được những thứ này. Thôi, đi lên trên nhà với ông. Mợ cháu mà trông thấy cháu ra nghịch cây của ông, thì cháu lại phải đòn đấy.
Nhớ đến trận đòn phất trần hôm nọ, vì trót nghịch gẫy mất mấy giò lan của ông nội, thằng bé mặt phụng phịu và hai tay đánh đai vào mình ông già, kéo trĩu cả tấm áo lông cừu. Nó làm nũng ông và quấn quít lấy ông, mong ông sẽ che chở cho, nếu mẹ nó nom thấy nó ra nghịch chậu cây cấm.
Cụ Kép cười khà khà. Rồi cụ lại vạch từng gốc rò lan, xem xét tỉ mỉ đến màng hoa, đến rò lan và thân lá. Hết chậu này đến chậu khác.
Tưởng chừng như cháu mình cũng là một người biết đến chuyện chơi cây, hiểu đến thời tiết trong một năm, có đủ những kinh nghiệm, thói tục và thông minh của người lớn, ông già đã nói với cháu bé:
- Tự nhiên, cuối năm lại nổi gió nồm. Cháu có thấy bực mình không? Ông tiếc cho mấy chục chậu lan của ông quá. Nở hết thôi!
Đứa cháu không hiểu đến ý nghĩa câu than phiền của ông già, ngửng bộ mặt ngây thơ lên, hỏi hai ba lần:
- Hoa sắp nở, sao lại tiếc hở ông?
Cụ Kép nhìn lại cái người bé tí hon đứng với mình trong vườn lan, thân cao không vượt khỏi cái lá lan uốn cầu vồng, cụ Kép đãi đứa cháu ngây thơ một nụ cười rất độ lượng, mắt nhấp nháy kính tuổi:
- Nếu không có nồm, thì hoa trong vườn ông còn lâu mới nỏ. Hoa sẽ nở nhằm vào ngày rằm tháng giêng. éúng vào ngày Tết Nguyên Tiêu. Ông cháu chúng ta sẽ có hoa mà thưởng xuân, cháu đã hiểu chưa? Bây giờ cháu chạy vào gọi bõ già ra đây cho ông bảo.
- Bõ đi ra bờ ao rửa đá cuội từ ban trưa kia ông ạ.
Phải, phía cầu ao trong vườn cụ Kép, một người lão bộc, đang lom khom dúng rổ đá xuống nước ao và sàng sẩy rổ đá như kiểu người ta sàng mẹt gạo. Tiếng đá bị tung lên dập vào nhau kêu sào sạo, khiến lũ cò trắng nghỉ chân trên lũy tre vội bay mất. Bõ già nghỉ tay, nhìn đàn cò sợ hãi bay cao, với nét cười của một người chịu vui sống trong sự an phận.
Bõ ở với cụ Kép đã lâu lắm. Cái hồi cụ Kép còn là một thầy khóa sinh hai mươi tuổi, bõ già đã nếm cơm ở của nhà này rồi. Chính bõ vác lều chõng cho cụ đi thi tú tài. Những việc lớn nhỏ trong nhà, bõ đều nhớ hết. Bõ nhớ cả đến ngày giỗ giúi trong họ. Không có bõ nhắc nhỏm có lẽ nhiều lần mợ ấm cả đã bỏ mất ngày giỗ. Bõ già hình như chỉ trải cuộc sống của mình để hằng năm, nhắc nhỏm đến những ngày giỗ trọng và giỗ giúi của gia đình người khác.
- Thưa mợ, đến mười sáu tháng tư này lại là chính kỵ cụ ngoại... Thưa mợ...
Mợ ấm cả, muốn tỏ sự cảm ơn, kín đáo đãi bõ già một miếng trầu kèm miếng cau tươi mềm. Trong cái gia đình yên lặng này, bõ già được thiện cảm của mọi người, không phải vì ỏn thót mà chính vì lòng thẳng thắn. Lắm lúc trông tội nghiệp lạ. Bõ tính toán, xếp đặt việc nhà chủ y như một người có quyền lợi dính dấp vào đấy. Cái hoài bão to lớn của bõ, là lúc trăm tuổi nằm xuống sao được một cái "áo" gỗ vàng tâm thật dày.
Ở đây, không ai nỡ nói nặng bõ. Và, đến những việc nặng, mọi người đều tránh cho bõ già. Công việc thường trong một ngày, có nhiều hôm chỉ thu vào việc chuyên trà tàu và thay bã điếu cho cụ Kép. Thậm chí trong những ngày cuối năm bận rộn như hôm nay, mà bõ già cũng không phải mó tay vào việc gì cả. Làm lợn gói giò chả, vo gạo, đồ đậu xanh làm bánh chưng, làm dầu đèn, lau bàn thờ, nhất nhất không việc gì phải qua tay bõ. Mãi đến trưa hôm ba mươi Tết, cụ Kép mới bảo bõ già đi rửa mấy trăm hòn đá cuội trắng. Nghe thấy bõ già nhận lấy cái việc rất ngộ nghĩnh đó, cả nhà đều cười. Thứ nhất là lũ trẻ con. Cụ Kép vẫn nghiêm trang dặn người bõ già:
- Bõ đem đá ra bờ ao rửa cho sạch. Lấy bẹ dừa mà kỳ cho nhẵn, cho trắng tinh ra. Xong rồi, lựa những viên đá tròn bỏ vào một cái rổ. Những viên đá xù xì, không tròn trĩnh, để một rổ khác.
Bõ già tỏ ý hiểu:
- Thưa cụ, con biết rồi. Cụ lại sắp cho dọn một bữa rượu "Thạch lan hương". Nhưng sao năm nay, lại soạn đá sớm quá? Thưa cụ, con nhớ mọi năm cứ hạ cây nêu xong rồi mới đem cuội ra ngâm kia mà...
- Thế bõ không thấy giời đổi gió nồm đấy à? Thế bõ không biết năm nay hoa nở sớm hơn mọi năm sao? Tôi đã cho ngâm thóc để lấy mầm nấu kẹo mạch nha từ mấy hôm nay rồi.
Bõ già gật gật...
Cụ Kép là người thích uống rượu ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ đã tới cái tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để dưỡng lấy tính tình. Vì bây giờ trong nhà cụ cũng đã thừa bát ăn. Xưa kia, cụ cũng muốn có một vườn cảnh để sớm chiều ra đấy tự tình. Nhưng nghĩ rằng mình chỉ là một anh nhà nho sống vào giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu hao mất bao nhiêu giá trị tinh thần; nhưng nghĩ mình chỉ là một kẻ chọn nhầm thế kỷ với hai bàn tay không có lợi khí mới, thì riêng lo cho thân thế, lo cho sự mất còn của mình cũng chưa xong, nói chi đến chuyện chơi hoa. Cụ Kép thường nói với lớp bạn cũ rằng có một vườn hoa là một việc dễ dàng, những đủ thời giờ mà săn sóc đến hoa mới là việc khó. Cụ muốn nói rằng người chơi hoa nhiều khi phải lấy cái chí thành chí tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng. Như thế mới phải đạo, cái đạo của người tài tử. Chứ còn cứ gây được lên một khoảnh vườn, khuân hoa cỏ các nơi về mà trồng, phó mặc chúng ở giữa trời, đày chúng ra mưa nắng với thờ ơ, chúng trổ bông không biết đến, chúng tàn lá cũng không hay thì chơi hoa làm gì cho thêm tội.
Đến hồi gần đây, biết đã đủ tư cách chơi cây cảnh, cụ Kép mới gây lấy một vườn lan nho nhỏ. Giống lan gì cũng có một chậu. Tiểu kiều, éại kiều, Nhất điểm, Loạn điểm, Yên tử v.v... Chỉ trừ có giống lan Bạch ngọc là không thấy trồng ở vườn. Không phải vì lan Bạch ngọc đắt giá mỗi giò mười đồng bạc, mà cụ Kép không trồng giống hoa này. Trong một buổi uống trà đêm, cụ Kép nói với một người bạn đến hỏi cụ về cách thức trồng cây vườn hoa:
- Tôi tự biết không chăm được lan Bạch ngọc. Công phu lắm, ông ạ. Gió mạnh là gẫy, nắng già một chút là héo, mưa nặng hột là nẫu cánh. Bạch ngọc thì đẹp lắm. Nhưng những giống nhẹ nhàng ấy thì yểu lắm. Chăm như chăm con mọn ấy. Chiều chuộng quá như con cầu tự. Lầm lỡ một chút là chúng đi ngay. Những vật quý ấy không ở lâu bền với người ta. Lan Bạch ngọc hay ưa hơi đàn bà. Trồng nó ở vườn các tiểu thư thì phải hơn.
Thiếu hẳn loài Bạch ngọc, cụ Kép đã cho trồng nhiều giống Mặc lan, Đông lan, Trần mộng. Giống này khỏe, đen hoa và rò đẫy, hoa có khi đậu được đến nửa tháng và trong mươi ngày, nếu chủ vườn có quên bón tưới, cũng không lụi.
Chiều hôm nay, hoa Mặc lan chớm nở.
Chiều mai, mùng một Tết, hoa Mặc lan mãn khai đầy vườn.
Đêm giao thừa, bên cạnh nồi bánh chưng sôi sình sịch, bõ già đang chăm chú canh nồi kẹo mạch nha. Cụ Kép dặn bõ già phải cẩn thận xem lửa kẻo lơ đễnh một chút là khê mất nồi kẹo.
Hai ông ấm, con trai cụ Kép, người lớn tuổi đứng đắn như thế, mà lại ngồi gần đấy, phất giấy vào những nan lồng. Thực là hai đứa trẻ con đang ngồi nghịch với lồng bàn giấy. Họ trịnh trọng ngồi dán hồ, vuốt giấy. Ông cụ Kép đứng kèm bên, mỗi lúc lại nhắc:
- Này Cả, thầy tưởng miệng lồng bàn, con nên đan to hơn miệng chậu. Con chạy ra, lấy cái que đo lại lợi chậu xem. Nếu rộng thì hỏng hết. Đo lợi chậu Mặc lan thôi.
Hai ông ấm, ngồi phất được đến mười cái lồng bàn giấy. Họ rất vui sướng vì họ tin đã làm toại được sở thích của cha già. Cụ Kép co ro chạy từ nồi mạch nha, qua đám lồng bàn giấy, đến cái rổ đá cuội đã ráo nước thì cụ ngồi xổm xuống, ngồi lựa lấy những viên đá thật trắng, thật tròn, để ra một mẹt riêng. Ông ấm cả, ông ấm hai lễ mễ bưng những chậu Mặc lan vào trong nhà. Cả ba ông con đều nhặt những hòn cuội xấu nhất, méo mó, xù xì trải xuống mặt đất những chậu lan gần nở. Mỗi lần có một người đụng mạnh vào rò lan đen, cụ Kép lại xuýt xoa như có người châm kim vào da thịt mình.
Nồi kẹo đã nấu xong nhưng phải đợi đến gần cuối canh hai kẹo mới nguội.
Bây giờ thêm được bõ già đỡ một tay nữa, cả ba ông con đều lấy những hòn cuội để riêng ban nãy ra mẹt, đem dúng đá cuội vào nồi kẹo, quấn kẹo bọc kín lấy đá, được viên nào liền đem đặt luôn vào lồng chậu hoa. Những viên đá bọc kẹo được đặt nhẹ nhàng lên trên lượt đá lót lên nền đất chậu hoa.
Úp xong lồng bàn giấy lên mười chậu Mặc lan thì vừa cúng giao thừa.
Ba ông con, khăn lượt áo thâm lạy trước bàn thờ đặt ngoài trời. Năm nay, trời giao thừa lành.
Cả một buổi sớm, cụ Kép phải bận ở đình làng. Trước khi ra đình cụ đã dặn bõ già ở nhà phải sửa soạn cho đủ để đến quá trưa, cụ và vài cụ nữa đi việc đình làng về sẽ cùng uống rượu thưởng hoa.
Bõ già đã bày ra giữa sân bốn cái đôn sứ Bát Tràng mầu xanh quan lục. Trước mặt mỗi đôn, bõ già đặt một án thư nhỏ, trên đó ngất nghểu hai chậu lan còn lù lù chiếc lồng bàn úp, và một hũ rượu da lươn lớn có nút lá chuối khô. Bõ già xếp đặt trông thạo lắm. Trong mấy năm nay, đầu mùa xuân nào bõ già cũng phải ít ra là một lần, bày biện bàn tiệc rượu Thạch lan hương như thế. Bõ già hôm nay lẩm bẩm phàn nàn với ông ấm hai:
- Năm nay cụ nhà uống rượu sớm quá và lại uống ban ngày. Mọi năm, cứ đúng rằm tháng giêng mới uống. Vả lại uống vào chiều tối. Đốt đèn lồng, treo ở ngoài vườn, trông vào bữa rượu hoa, đẹp lắm cậu ạ.
Ông ấm hai vui chuyện, hỏi bõ già:
- Này bõ già, tôi tưởng uống rượu nhấm với đá cuội tẩm kẹo mạch nha thì có thú vị gì. Chỉ thêm xót ruột.
- Chết, cậu đừng nói thế, cụ nghe thấy cụ mắng chết. Cậu không nên nói tới chữ xót ruột. Chính cụ nhà có giảng cho tôi nghe rằng những cụ sành uống rượu, trước khi vào bàn rượu không ăn uống gì cả. Các cụ thường uống vào lúc thanh tâm. Và trong lúc vui chén, tịnh không dùng những đồ nhắm mặn như thịt cá đâu. Mấy vò rượu này, là rượu tăm đấy. Cụ nhà ta quý nó hơn vàng. Khi rót rỏ ra ngoài một vài giọt, lúc khách về, cụ mắng đến phát thẹn lên. Cậu đậy nút lại không có rượu bay!
Phía ngoài cổng, có tiếng chó sủa vang.
Bõ già nhìn ra thấy bốn cụ tiến vào đã quá nửa lòng ngõ duối. Cụ nào cũng cầm một cây quạt thước, chống một chiếc gậy tre càng cua hay trúc đùi gà. Uống xong tuần nước, cụ Kép mời ba cụ ra sân uống rượu. Bõ già vòng tay vái các cụ và đợi các cụ yên vị rồi thì khom khom mở từng chiếc lồng bàn giấy một.
Một mùi hương lan bị bỏ tù trong bầu không khí lồng bàn giấy phất từ đêm qua, đến bây giờ vội tản bay khắp vườn cây. Bốn cụ và bõ già đánh hơi mũi: những cặp mắt kém cỏi đăm đăm nhìn kỹ vào khoảng không trong vắt như có ý theo dõi luồng hương thơm đang thấm nhập dần vào các lớp khí trời. Cơn gió nhẹ pha loãng hương thơm đặc vào không gian.
- Dạ, xin rước các cụ.
Dứt tiếng cụ Kép, tất cả bốn cụ đề úp lòng bàn tay vào nhau thi lễ và giơ tay chỉ thẳng vào giữa mời nhau ai cao tuổi xin nhắp chén trước đi. Tiệc rượu bắt đầu. Bõ già kính cẩn chắp tay đứng sau lưng chủ, có vẻ cũng thèm say lắm.
- Trời lạnh thêm chút nữa, uống Thạch lan hương mới đúng phép, chủ nhân ạ!
Đáp lời cụ Cử Lủ, cụ Kép vuốt râu cười nói:
- Chính thế. Nhưng đệ sợ chờ được lạnh đến, thì hoa vườn nhà tàn mất. Trông kẹo mạch nha không đông, còn dính vào lớp đá lót, đệ cũng biết là không được khéo lắm. Trời nồm biết làm thế nào.
- Này cụ Kép, kẹo đá thơm ngon đấy. Chỉ hiềm có mùi ung ủng pha vào hương lan. Chắc kẹo nấu bén nồi, khê và thêm không được đông nên mới có tạp vị nhiễm vào.
Sau mấy câu phê bình về tiệc rượu, tỏ ra mình là người biết thưởng thức những vị thanh lương đạm bạc, bốn cụ đều xoay câu chuyện sang phía thơ văn.
Cụ Tú người cùng làng với cụ Kép mở đầu câu chuyện làm thơ.
- Sớm nay, đệ đã khai bút rồi. Đệ nghĩ dược một đôi câu đối. éể các cụ chữa cho mấy chữ. Chiều nay sẽ viết luôn vào giấy hồng điều để xin phép dán thêm vào cổng nhà.
Ba cụ cùng cạn chén một lúc, cùng nói một lúc:
- Cụ Tú hãy cạn luôn ba chén rồi hãy đọc đôi câu đối mới. Câu đối của cụ còn ai mà hạch nổi chữ nào. Cụ nói gì mà khiêm tốn vậy... Chúng tôi xin nghe.
Chờ cụ Tú dặng hắng lấy giọng, mỗi cụ đều bỏ vào mồm những viên kẹo mạch nha đá cuội ướp hương lan. Những nhân đá đánh vào răng kêu lách cách. Mỗi ông già đọc một đôi câu đối.
Rồi chén rượu ngừng là một lời thơ ngâm trong trẻo. Cứ thế cho tàn hết buổi chiều.
Mấy cụ đều khen lẫn nhau là thơ hay. Trong cái êm ấm của buổi chiều xuân sớm, tiếng ngâm thơ quyến rũ cả đến tâm hồn một người lão bộc. Bõ già, chiều mồng một Tết tự nhiên mặt sáng tỏ hẳn lên. Cái đẹp của tiệc rượu ngâm thơ lây cả sang người bõ.
Vò rượu vợi với chiều xuân sớm quên đi.
Những vò rượu vợi dần. Trong lòng đĩa sứ đựng nhân đá, hòn cuội cao dần lên, bõ già đưa thêm mãi những đĩa sứ vào bàn rượu.
Từ phía đầu làng, dội về mấy tiếng pháo lẻ loi. Lũ cháu nhỏ, nấp sau cột nhà, muốn chạy ra xin bõ già phát cho chúng những hòn cuội đã nhắm rượu xong rồi kia./.



Hôm nay tôi đăng lại bài viết về nhà thơ Đỗ Trung Quân mà tôi rất thích.

ĐỖ TRUNG QUÂN
Theo bài phỏng vấn trên báo Vietnam News giữa năm 2005 thì trong khai sinh của ông không có tên cha. Ông được mẹ là bà Đỗ Thị Hảo nuôi lớn đến năm 15 tuổi thì mẹ mất. Ông tiếp tục mưu sinh và sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông vào học tại Đại học Vạn Hạnh.
Năm 1979, Đỗ Trung Quân tham gia phong trào Thanh niên xung phong và bắt đầu sáng tác. Một số bài thơ của ông trở thành nổi tiếng như Hương tràmBài học đầu cho conChút tình đầuKhúc mưa
Đỗ Trung Quân bắt đầu nổi tiếng với bài thơ “Bài học đầu cho con” mà sau đó  được Giáp Văn Thạch phổ thành ca khúc với tựa đề “Quê Hương”. Bài thơ sâu lắng và được người đọc nhớ tới trước tiên và hơn hết là hình ảnh người mẹ một gió hai sương lam lũ nuôi con tới trường, để từ đó hình thành một nhân cách sống, một nhân sinh quan đặt trên nền tảng nơi chôn nhau cắt rún vẫn là nơi để nhớ, để thương, để nghĩ về cho dù sống bất cứ nơi đâu.
Bài thơ man mác hình ảnh người mẹ hiền dịu dàng đến từng bước chân, và mồ hôi của bà lóng lánh trên mỗi trang ký ức của từng người trong chúng ta. Đỗ Trung Quân có niềm cảm hứng lớn đối với tình mẫu tử. Hình ảnh người mẹ trong “Bài học đầu đời” mỗi ngày một già đi, tiều tụy với gió sương và bão táp trong lúc chăm sóc tác giả, đứa con được bà nâng niu chiều chuộng như những lúc nó còn thơ dại. Cái nghiêng nón trẻ trung đầy sức sống của bà trong “Bài Học đầu đời” đã thay bằng “cắp nón rụt rè/bước vào trong sân guốc mòn, áo vải” trong bài “Đã không còn một điều bí mật”. Đỗ Trung Quân dẫn Mẹ đi trong lòng người đọc bằng nhiều hình tượng mà ở góc nào người ta cũng thấy sự trìu mến, dịu dàng của bà, điển hình cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam.

Đã không còn một điều bí mật

Trong bài “Đã không còn một điều bí mật…” Đỗ Trung Quân viết:
ba-me-vn-200.jpg
Bà Mẹ Việt Nam. Photo courtesy of trường Trung Học tỉnh hạt Thuận An.
1. Những gã đồng nghiệp thò đầu qua cửa sổ hét toáng:
- Bác ơi! Mang hắn về nhà cho bú tí đi!
khi ấy tôi đã ba mươi tám tuổi một vợ, một con trai
khi ấy người đọc gọi tôi bằng danh xưng: nhà thơ!
mẹ tôi mất vài năm sau đó.

2. Khi mẹ tôi cắp nón rụt rè
bước vào trong sân guốc mòn, áo vải
reception báo tin: có bà cụ đến tìm!
khi ấy tôi đã bốn mươi tuổi đang rất nổi tiếng
những gã đồng nghiệp vẫn đồng loạt hét toáng:
- Bác ơi! Mang hắn về nhà cho bú tí đi!
mẹ tôi mất một năm sau đó.

3. Chẳng ai biết vì sao bà cụ ấy
thường xuyên cắp nón đi tìm
thằng con đã tóc râu chớm bạc
đơn giản lắm!
đêm qua nghe ai bảo tôi say xỉn không về nhà
đêm qua trời Sài Gòn trở gió…
người mẹ ấy hôm sau run rẩy đi tìm
rụt rè hỏi nhỏ:
- Con có bị ốm không?
mẹ già rồi lẩn thẩn
đừng mắng mẹ nghe con…

4. Thú thật ngày xưa…
tôi gắt mẹ một lần.

Ở câu cuối, Đỗ Trung Quân thú thật rằng ông đã từng gắt mẹ, dù chỉ một lần…
Lời thú nhận này cay đắng và buồn biết bao vì nó thật và không có gì thật hơn thế. Trong chúng ta mấy ai không từng gắt mẹ, không từng khó chịu trước sự thương yêu mà chúng ta cho là quá lố của bà trước chốn đông người để sau này khi bà mất, tất cả những lố bịch mà chúng ta mang đến cho bà quay trở lại dày vò chính mình như một tội đồ của lòng thương mến vô biên kia.
Mẹ rồi sẽ qua đời. Thi sĩ làm thơ khóc mẹ. Người đọc chia sẻ niềm rung động ấy có khi bằng nước mắt nhưng chính bà mẹ của chúng ta lại không được gì dù chỉ là một tiếng mẹ ơi….

Mẹ

Xin tặng cho những ai được diễm phúc còn có Mẹ
Con sẽ không đợi một ngày kia
khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua
mỗi ngày qua con lại thấy bơ vơ
ai níu nổi thời gian?
ai níu nổi?
Con mỗi ngày một lớn lên
Mẹ mỗi ngày thêm già cỗi
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn.
Con sẽ không đợi một ngày kia
có người cài cho con lên áo một bông hồng
mới thảng thốt nhận ra mình mất mẹ
mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng
hoa đẹp đấy – cớ sao lòng hoảng sợ?
Nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật có những câu thơ thật hay về bông hồng, đặc biệt khi những cành hồng này dành để tặng người yêu, ông viết:
“Yêu em anh cứ tặng hoa
Một ngày anh chợt nhận ra điều này
Mẹ già sàng gạo run tay
Anh về hối hận mấy ngày nằm đau…”
Còn Đỗ Trung Quân thì âm thầm hối hận, nhẹ nhàng hơn Nguyễn Hữu Nhật nhưng nỗi đau thì không hề thua kém
Ta ra đi mười năm xa vòng tay của mẹ
Sống tự do như một cánh chim bằng
Ta làm thơ cho đời và biết bao người con gái
Có bao giờ thơ cho mẹ ta không?
Những bài thơ chất ngập tâm hồn
đau khổ – chia lìa – buồn vui – hạnh phúc
Có những bàn chân đã giẫm xuống trái tim ta độc ác
mà vẫn cứ đêm về thao thức làm thơ
ta quên mất thềm xưa dáng mẹ ngồi chờ
giọt nước mắt già nua không ứa nổi
ta mê mải trên bàn chân rong ruổi
mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng
Khi gai đời đâm ứa máu bàn chân
mấy kẻ đi qua
mấy người dừng lại?
Sao mẹ già ở cách xa đến vậy
trái tim âu lo đã giục giã đi tìm
ta vẫn vô tình
ta vẫn thản nhiên?
Hôm nay…
anh đã bao lần dừng lại trên phố quen
ngã nón đứng chào xe tang qua phố
ai mất mẹ?
sao lòng anh hoảng sợ
tiếng khóc kia bao lâu nữa
của mình?
Bài thơ này xin thắp một bình minh
trên đời mẹ bao năm rồi tăm tối
bài thơ như một nụ hồng
Con cài sẵn cho tháng ngày
sẽ tới!

Phượng hồng

Bên cạnh những bài thơ hay về Mẹ, Đỗ Trung Quân cũng rất nổi tiếng về những bài thơ tình. Bài “Chút tình đầu” đã được đón nhận như một kiệt tác viết về tình yêu nhất là sau khi bài thơ được Vũ Hoàng phổ thành ca khúc với tên gọi “Phượng hồng” . Bài thơ có những câu khó quên như:
“Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng
Em chở mùa hè của tôi đi đâu?
Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám
Thuở chẳng ai hay thầm lặng – mối tình đầu”
Trong “Bài thơ về đôi lứa” Đỗ Trung Quân mơ màng tưởng tượng về hình bóng của người yêu. Hình ảnh ngã nghiêng bởi những gì vừa mơ hồ, dễ vỡ lại thấm đẫm hương sắc và ngập tràn nhung nhớ. Tất cả những thuộc tính của tình yêu ấy được thi sĩ tỉ mỉ sắp xếp thành môt chuỗi câu chuyện mà thực ra chẳng có chuyện gì để nói, ngoại trừ chính hai kẻ yêu nhau mới hiểu được thứ ngôn ngữ này.

Bài thơ về đôi lứa

ValentineCouple200.jpg“Nơi nào có em, nơi ấy là thiên đường”
Mark Twain
Nếu như đêm nay anh ngồi gác một mình
Chỉ riêng anh và những vì sao còn thức
Anh sẽ chọn một vì sao đẹp nhất
Để bảo rằng – đấy chính là em
Nếu trưa nào anh qua một khoảng đường êm
Chỉ có nắng và chân mình đạp lá
Trời thành phố khép hàng mi êm ả
Anh đi cùng chiếc bóng của mình
Anh sẽ chọn một bóng râm dịu mát
Để bảo rằng – đấy chính là em
Nếu khuya nào anh vào xưởng ca đêm
Giờ ngon giấc của em trong giấc ngủ
Anh sẽ gọi hương ngọc lan đầu phố
Theo dọc đường và bảo – đấy là em
Ở nơi nào mà anh chẳng có em
Có cả lúc một mình đi xuống phố
Đi theo anh chỉ lá me và gió
Thì lá me và gió chính là em
Anh nghiêng mình cảm tạ Mark Twain
Đã phát biểu tuyệt vời về đôi lứa
Đã cho anh những thiên đường mở cửa
Khắp mọi nơi trong cuộc sống của mình
Ở nơi nào mà anh chẳng có em
Có khi ngủ nữa là khi anh thức
Anh đưa tay là chạm vào hạnh phúc
Trái táo hồng treo giữa những cành êm
Em là ban mai, là chiều vắng, là đêm…
Thi sĩ thường yêu lan man, khi người yêu của anh ta tới đâu thì hình như lập tức nơi ấy trở thành danh lam thắng cảnh hay ít ra cũng trở thành nơi đáng nhớ, đáng yêu.

Biển, Núi, Em và Sóng

Đỗ Trung Quân trầm tư trước biển và núi. Hai sức mạnh thiên nhiên này được ông cách điệu thành hai nhân chứng, muôn đời chứng kiến và chia sẻ tình yêu của những đôi lứa dưới sức nặng của tình yêu trai gái, ông viết trong“Biển, Núi, Em và Sóng”
Xin cảm ơn những con đường ven biển
Cho rất nhiều đôi lứa dẫn nhau đi
Cám ơn sóng nói thay lời dào dạt
Hàng thùy dương nói hộ tiếng thầm thì
Anh như núi đứng suốt đời ngóng biển
Một tình yêu vươn chạm tới đỉnh trời
Em là sóng nhưng xin đừng như sóng
Ðã xô vào xin chớ ngược ra khơi
Anh như núi đứng nghìn năm chung thủy
Không ngẩng đầu dù chạm tới mây bay
Yêu biển vỗ dưới chân mình dào dạt
Dẫu đôi khi vì sóng núi hao gầy…
Cám ơn em dịu dàng đi bên cạnh
Biển ngoài kia xanh quá nói chi nhiều
Núi gần quá – sóng và em gần quá
Anh đủ lời để tỏ một tình yêu
Đỗ Trung Quân cũng viết về Tết, về những mùa Xuân đỏ thắm đi qua trong đời. Tuy nhiên nhà thơ không miêu tả nét Tết của dân tộc mà ông viết về Tết như một cái cớ để nhắn với người yêu rằng nhà thơ yêu cô lắm. Yêu như trẻ con yêu Tết. So sánh ngộ nghĩnh này thật ra rất đúng với tâm trạng nhà thơ khi toàn bài thơ là một bức tranh Tết chỉ để làm phông để tôn vinh hình ảnh của cô người yêu bé nhỏ cắt tóc tém của ông thôi…
Một chút hương thời gian
Cơn gió mùa xưa về gõ cửa
Cho lòng ta nhớ Tết thế này
Em đến mà sao trời nóng quá
Đâu còn một chút mưa xuân bay?
Em đến cùng ta xin ngồi lại
Treo một cành lan trong lặng im
Nhịp guốc nào quen xin gõ nhẹ
Đã nghe êm ả – gió qua thềm
Ta không xuống phố đi tìm Tết
Áo gió – xập xình nhạc phương Tây
Ở lại cùng ta em bé nhỏ
Nhớ chút hoa đào lác đác bay
Tết của riêng lòng ta giữ lại
Những thằng cu áo đỏ lon ton
Tết của riêng lòng ta giữ lại
Chiếc thuyền lan cũ hội chùa Hương
Ta không ra phố đi tìm Tết
Chiều cuối năm rồi – nắng đỉnh cây
Phố đông trả những người con gái
Tóc tém không còn thả gió bay…

Thương Nhớ Hoa Đào

Sinh ra và lớn lên tại đất Sài Gòn nhưng chừng như Đỗ Trung Quân khó quên cái căn cước Hà Nội của mình. Ông nói tiếng Bắc, tưởng tượng những cơn gió Hà Nội thổi qua trái tim của ông ở tận miền Nam. Nhìn Mẹ lui cui với khăn mỏ quạ ông làm thơ thương nhớ hoa Đào, một loại hoa mà trong Nam không hề có.
Người miền Nam yêu Mai, người Hà Nội yêu Đào còn Đỗ Trung Quân sống giữa hai miền thì trái tim nhạy cảm của ông chắc có chút gì đặc biệt hơn người thường. Mà cũng rất lạ, ông dùng Đào để nhắc về một người con gái đã đi qua đời mình một chiều cuối năm nào đó nay chỉ để lại một vết nhớ rất mong manh qua cánh lan yếu ớt. Chúng ta hãy nghe chính nhà thơ kể về cái Tết miền Nam yêu đào xứ Bắc qua bài Thương Nhớ Hoa Đào do chính ông đọc cho chúng ta nghe sau đây.
hoa-dao-nhat-tan-wikipedia-200
Hoa đào Nhật tân. Photo courtesy of wikipedia
Sài Gòn không mưa bụi
Mùa Đông hay mùa Xuân
Phố dài lên áo ấm
Phố lên chiều cuối năm

Cành lan nào năm ngoái
Em gửi trước hiên nhà
Lạnh rối hoa chớm nụ
Em có về thăm ta?
Em có về tiếng guốc
Dù đã quên lâu rồi
Khua ngoài thềm gọi nhé
Với riêng lòng ta thôi.
Em hiểu lòng ta với
Còn thương nhớ hoa đào
Em hãy về áo đỏ
Như Nguyên Đán hôm nào
Sài Gòn không mưa bụi
Mùa Đông hay mùa Xuân
Em có là chim sẻ,
Tha mây về cuối năm?
Những ngày đầu năm mới, nghe lại vài bài thơ dễ thương có lẽ sẽ là một vận may trong suốt cả năm. Hy vọng quý vị thính giả yêu quý của chương trình VHNT do Mặc Lâm phụ trách sẽ thích thú với những bài thơ của Đỗ Trung Quân để trong buổi bình minh mới khi hương thơm của mùa Xuân đang tràn ngập trong vườn quý vị sẽ nhận ra rằng, nét đẹp của một câu thơ đôi khi làm cho chúng ta thích thú suốt cả ngày và quan trọng hơn nữa thơ có thể giúp người say mê nó trở nên lãng mạn, yêu đời và yêu nhau hơn.
Đó cũng là những gì mà Mặc Lâm ao ước quý vị sẽ cảm nhận được sau khi nghe chương trình này. Hy vọng trong năm mới Mặc Lâm sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ quý vị qua hộp thư: maclam@rfa.org.

Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2015


Phó thường dân không hiểu nổi ý tưởng cao siêu của Thứ trưởng:

Thứ trưởng Công Thương: 'Giá điện tăng, mọi người đều được lợi'

Người phát ngôn Bộ Công Thương cho rằng, việc giá điện bán lẻ tiệm cận thị trường tạo nên sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, khiến chi phí sản xuất giảm. Nhà nước không phải bù lỗ và người dân cũng được hưởng lợi.
EVN-2-8018-1422876748.jpg
Đại diện Bộ Công Thương cho rằng giá bán lẻ điện tiệm cận giá thị trường sẽ giúp người dân được hưởng lợi từ sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Chủ trì cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Công Thương chiều 2/2, hầu hết câu hỏi mà Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải nhận được đều xung quanh kế hoạch tăng giá điện, vốn đã được cơ quan điều hành "bật mí" trước đó là sẽ điều chỉnh trong giai đoạn đầu năm 2015.
Không đưa thêm thông tin cụ thể hơn về kế hoạch này, đại diện Bộ Công Thương tiếp tục khẳng định, giá điện sẽ được điều hành theo lộ trình tiến gần hơn tới thị trường, như một số mặt hàng thiết yếu khác. Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho biết việc giá bán hiện còn thấp hơn giá thành là không có lợi cho Chính phủ, doanh nghiệp cũng như người dân.
"Doanh nghiệp trực tiếp sản xuất là Tập đoàn Điện lực (EVN) phải chịu lỗ thì Nhà nước phải bù. Ngay cả các tổ chức quốc tế cũng luôn cảnh báo về giá bán điện của Việt Nam hiện nay", ông nói. Do vậy, vị này cho rằng nếu không thay đổi giá bán chắc chắn không một nhà đầu tư nào muốn đổ tiền vào các dự án điện trong nước.
Nói rõ hơn về việc điều chỉnh tăng giá sẽ "mang lại lợi ích cho mọi người", Thứ trưởng phân tích: "Giá bán lẻ là một trong những điều khoản thu hút vốn của các nhà đầu tư. Một khi có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia sản xuất và bán điện thì chi phí sẽ hạ. Khi đó người dân sẽ được hưởng một mức giá cạnh tranh nhất".
Ngoài việc có thêm tiền để cân bằng các khoản lỗ, EVN và một số doanh nghiệp trong nước không chịu nhiều áp lực về nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh đó, với giá bán như hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất khối FDI đang được hưởng ưu đãi nhiều nhất và chính Nhà nước phải hỗ trợ để bù giá, ngoài những khoản lỗ của ngành điện hiện có. "Đó chính là sự hưởng lợi của các bên khi tăng giá bán lẻ điện năng", đại diện Bộ Công Thương khẳng định.
Trước mắt, đề giảm tối đa được các chi phí trong sản xuất kinh doanh, cơ quan này đã yêu cầu EVN tìm mọi phương án tăng năng suất lao động, tiết kiệm tối đa điện năng đồng thời tập trung vấn đề quản trị doanh nghiệp.
Nhắc lại thời điểm điều chỉnh, Thứ trưởng Hải cho biết theo chỉ đạo của Thủ tướng, từ nay đến Tết Nguyên đán, giá điện sẽ chưa tăng. Trong tháng 3/2015, dựa trên đánh giá tình hình của EVN cũng như các vấn đề liên quan, Bộ sẽ chính thức trình phương án tăng giá lên Thủ tướng quyết định. 
Thành Tâm

Thứ Tư, 4 tháng 3, 2015

NHỚ SÀI GÒN XƯA


SAIGON TRƯỚC 1975
Bài 1: Sài Gòn và siêu thị đầu tiên ở Việt Nam
Phạm Công Luận – Theo Thanh Niên – 26 Feb 2015
Siêu thị Nguyễn Du, khu siêu thị đầu tiên ở Sài Gòn và có thể nói là toàn cõi VN mở cửa năm 1967, mang đến cho nhiều gia đình công tư chức ở Sài Gòn những tiện lợi trong chuyện mua sắm mà trước đó không hề có.
kieuchinh_bayi
Diễn viên điện ảnh Kiều Chinh đến mua hàng tại siêu thị Nguyễn Du
Một dịp sát tết, tôi được đến siêu thị với anh trai, thấy nó giống một cửa hàng cực lớn, máy lạnh mát rượi và đầy những thứ lạ lẫm. Khách mua hàng toàn những người lớn ăn bận lịch sự, nam với áo chemise bỏ vào quần, những người lính và nhiều phụ nữ bận áo dài. Do xe đẩy không có nhiều như bây giờ, khách mua hàng toát mồ hôi sắp hàng tính tiền, tay lủ khủ hàng hóa trong những cái túi lưới.
Siêu thị Nguyễn Du được thiết lập ở góc đường Nguyễn Du và Chu Mạnh Trinh, Sài Gòn (hai con đường này nay thuộc quận 1, tên đường không thay đổi cho đến nay) do Tổng cuộc Tiếp tế thành lập. Theo một số tài liệu, năm 1966, ông Trần Đỗ Cung, đứng đầu cơ quan trên được giao nhiệm vụ quân bình thị trường. Ngoài việc cấp bách như giải quyết những việc cần thiết cho đời sống người dân như nhập xe gắn máy, điều hòa việc phân phối thịt heo, gạo, ông dự tính thiết lập tại VN các trung tâm bán lẻ để phục vụ đại chúng, nhất là những người có đồng lương ổn định.
sieuthinguyendu_imcd
Đầu tháng 2.1967, một phái đoàn do ông Cung cử ra đã đến thăm chợ Mỹ (Commissary) ở đường Hùng Vương, Chợ Lớn để quan sát hoạt động cùng cách tổ chức của cơ sở này. Sau đó một tuần, ông Trần Đỗ Cung cùng một chuyên viên tài chính lên đường đi Philippines theo lời mời của Tập đoàn siêu thị Makati ở thủ đô Manila để nghiên cứu về quản lý, kiểm soát, tổ chức và sản xuất thực phẩm. Họ còn tiếp tục đến Hồng Kông, Singapore để tham quan các siêu thị. Sau đó, tổ chức đào tạo về cách vận hành siêu thị cho nhân viên và tổ chức một khu chợ tết vào tháng 1.1967, vừa để phục vụ việc mua sắm tết vừa tổ chức buôn bán theo hình thức mới để huấn luyện nhân viên của mình.
Theo hồi ký của ông Trần Đỗ Cung xuất bản tại Mỹ năm 2011, một kiến trúc sư người Đức tên Meier đã được thuê vẽ họa đồ xây cất siêu thị, phối hợp với Công ty NCR về trang bị, thiết bị bên trong. Ngày 16.10.1967, siêu thị đầu tiên ở VN chính thức ra đời, mở đầu một kỷ nguyên mới cho ngành bán lẻ. Từ cửa vào, khách đi tay không vô siêu thị bằng một cửa quay, tự lấy một giỏ xách hay xe đẩy và đi lựa chọn hàng đã ghi sẵn giá trên kệ. Chọn xong, họ tính tiền ở các quầy thu ngân có máy tính tự động. Siêu thị này có 6 quầy thu ngân ở cửa ra, trong đó có một “quầy hỏa tốc” dành cho những người mua ít hàng. Còn có một lối ra cho người không mua hàng. Cách thức không khác gì siêu thị ngày nay, nhưng khi nó được áp dụng cách nay gần 50 năm thì là một sự ngạc nhiên và kỳ thú đối với khách mua hàng Sài Gòn. Trong hồi ký, tác giả tả không khí lúc đó: “Siêu thị đã hoàn tất trên đường Nguyễn Du, có bãi đậu xe rộng rãi. Ngày khai trương cả đoàn xe Honda, Mobylette và Vespa rầm rập kéo đến chở vợ con hí hửng bước vào ngôi chợ tối tân mới mở cửa, phục dịch khách mua hàng một cách niềm nở và lịch sự”.
sieu-thi-1_yenl
Sau khi khai trương hơn một tháng, siêu thị Nguyễn Du tổ chức một sự kiện đánh dấu sự thành công của mình. Khi người khách thứ 100.000 đến đây và đặt tay vào cửa quay, loa phóng thanh phát to: “Hoan nghênh công dân siêu thị thứ 100.000, là anh Lê Văn Sâm…”. Anh được choàng băng kỷ niệm và được ông quản đốc trao tặng giải thưởng trị giá 10.000 đồng.
Siêu thị Nguyễn Du nằm trên diện tích 30.000 m2, ở một khu phố còn vắng vẻ không phù hợp cho việc buôn bán lắm nhưng khi siêu thị được lập ra, số khách hàng lui tới được đánh giá là “ngoài mức tưởng tượng”. Trung bình mỗi ngày có khoảng 2.500 người đến mua sắm và doanh thu mỗi ngày tối đa là 1,5 triệu đồng thời đó.
sieuthi2_pzvy
Trước khi siêu thị được thành lập, trong giới doanh thương Sài Gòn, tuy rất nhanh nhạy với cái mới đã có nhiều ý kiến cho rằng đây là việc làm “không tưởng”. Tuy nhiên, Tổng cuộc Tiếp tế với ý định sẽ thiết lập các chuỗi dây chuyền siêu thị tư nhân đã không chùn bước. Sau khi siêu thị này hình thành ít lâu, họ nhận được nhiều thư tán thưởng và nhiều tư nhân tấp nập gửi đơn đến đề nghị cộng tác thiết lập siêu thị tư nhân dưới hình thức này hay hình thức khác. Đến tháng 12, đã có hai siêu thị tư nhân cỡ nhỏ là An Đông và Đoàn Thị Điểm mở ra. Cái thứ ba ở Biên Hòa được trang bị để mở vào Tết Mậu Thân năm 1968.
Siêu thị này và những siêu thị nhỏ khác ở Sài Gòn và các vùng lân cận hoạt động đến 1975 thì chấm dứt. Sau đó là khoảng thời gian vắng bóng siêu thị cho đến gần 20 năm sau mới xuất hiện trở lại (khoảng 1993). Đến nay nhiều người vẫn cho rằng, siêu thị ở VN bắt đầu quá muộn mà không biết nó đã hình thành từ gần nửa thế kỷ nay và đã được tổ chức hoạt động rất tốt không khác gì các siêu thị bây giờ.
sieuthisgtruoc1975_bqjo
Đi trước cả Bangkok
Sau khi siêu thị Nguyễn Du được thành lập không lâu, ông Cung được SMI (Viện Siêu thị – Super Marketing Institute) mời qua Bangkok (Thái Lan) gặp các nhà buôn Thái để trình bày kinh nghiệm khi hình thành siêu thị đầu tiên này. Như vậy, dù đang trong hoàn cảnh chiến tranh, Sài Gòn đã đi trước Bangkok, một thành phố lớn sống trong hòa bình về việc buôn bán lẻ qua hệ thống siêu thị.
Bài 2: Trường Nữ trung học Gia Long
By Saigon Xưa – Hòn Ngọc Viễn Đông tổng hợp – 11 July 2012
gia-long-3
Trường Nữ trung học Gia Long còn được gọi là  trường nữ sinh Áo Tím là một trường trung học phổ thông công lập ở Sài Gòn. Được thành lập từ năm 1913, cho đến nay trường Gia Long là một trong những trường phổ thông lâu đời nhất của nền giáo dục Việt Nam.
Thời Pháp thuộc
Khoảng đầu thế kỷ 20, nền giáo dục ở Việt Nam còn mang tính chất Nho giáo nên ít chú trọng đến giáo dục nữ giới. Xuất phát từ ý định tha thiết muốn xây dựng một nền giáo dục cho nữ giới, năm 1908, nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của Tổng Đốc Phương và một số nhân sĩ trí thức đã đề nghị chính quyền thực dân Pháp thành lập một ngôi trường Sơ Học Cao Đẳng (bậc tiểu học) dành cho nữ.
Năm 1909, đơn đã được Hội Đồng Quản Hạt chấp thuận nhưng chưa có kinh phí để thực hiện. Mãi đến ngày 6 tháng 11 năm 1913, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường Nữ Học Đường Sài Gòn mới được cử hành. Trường được xây dựng trên một khu đất rộng ở đường Legrand de la Liraye, sau đổi tên là đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ), bên phải là đường Bà Huyện Thanh Quan, bên trái là Đoàn Thị Điểm (Trương Định ngày nay), phía sau là Ngô Thời Nhiệm, thuộc thành phố Sài Gòn.
Hai năm sau, ngày 19 tháng 10 năm 1915, Toàn Quyền Ernest Nestor Roume và Thống Đốc Courbell làm khánh thành. Trong buổi lễ trọng thể này, ban tổ chức đã chọn màu tím làm màu áo đồng phục cho nữ sinh, tượng trưng đức tính đoan trang, kín đáo và khiêm nhường của người thiếu nữ Việt Nam. Từ đó, trường thường được gọi là “Trường Áo Tím”.
Khóa đầu tiên trường tuyển 42 nữ sinh, Các học sinh đầu tiên của Trường thuộc những gia đình sống ở Sài Gòn và các vùng phụ cận. Dần dần, có nhiều học sinh từ các tỉnh lên học nên Trường bắt đầu có nội trú.
gia-long-1
Trường đào tạo thành nhiều lớp: Đồng ấu (Enfantin), Cao đẳng (Supérieur). Năm cuối Sơ học (CEP), học sinh phải thi lấy Chứng chỉ Căn bản Giáo dục sau khi tốt nghiệp những lớp cao cấp.
Trong những năm 1917 – 1922, vì số lượng học sinh gia tăng, trường xây dựng thêm một tòa nhà thứ hai song song với tòa nhà cũ.. Các phòng trên lầu được dùng làm phòng ngủ nội trú cho các học sinh xa nhà. Cách một sân cỏ, là một dãy nhà sau, thấp, sát với vách tường rào. Ở đó có bệnh thất, các lớp nữ công gia chánh, phòng giặt và xếp quần áo học sinh nội trú, cuối cùng là nhà bếp.
Tháng 9 năm 1922, Toàn Quyền Albert Sarraut cắt băng khánh thành Ban Trung Học Nữ Học Đường. Một phiến đá bằng cẩm thạch khắc chữ Collège Des Jeunes Filles Indigènes (Trường Của Những Thiếu Nữ Bản Xứ) được dựng lên trước cổng trường, tuy nhiên trường vẫn được biết đến nhiều hơn với cái tên Trường Nữ Sinh Áo Tím.
Bà Lagrange, vợ một ông Chánh Tham Biện người Pháp, được bổ nhiệm làm Hiệu Trưởng ban trung học. Trường mở từ lớp đệ thất niên (lớp 6 bây giờ) đến lớp đệ tứ niên (lớp 9 bây giờ), chỉ thu nhận nữ sinh có bằng Sơ Học và kỳ thi tuyển vào trường.
Lúc đầu, các nữ sinh đậu vào lớp đệ nhất (lớp 12 bây giờ) thì học ban Sư Phạm, sau bốn năm ra làm giáo viên. Hoặc theo ban Phổ Thông. Cả hai ban đều học một chương trình để tốt nghiệp lấy bằng Thành Chung (DEPSI).
Từ lớp Dự Bị (Préparatoire) tức là lớp Hai bây giờ, học sinh đã bắt đầu học Pháp Văn. Ban Trung Học hoàn toàn được giảng dạy bằng tiếng Pháp. Mỗi tuần chỉ có hai giờ Việt Ngữ. Trong trường học sinh bị bắt buộc phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Mỗi lần bị bắt gặp nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, phải chịu phạt một hay hai xu. Nhưng hình phạt không mấy khi thi hành.
Tuy trường khi này do người Pháp quản lý nhưng phong trào đấu tranh chống thực dân trong học sinh vẫn âm ỉ, ít nhất đã hai lần nữ sinh trường xuống đường. Lần thứ 1 vào đầu năm 1920,  khi một giáo viên người Pháp yêu cầu học sinh người Việt phải nhường ghế ở hàng đầu cho học sinh người Pháp ngồi. Lần thứ 2 vào năm 1926, nhân đám tang cụ Phan Chu Trinh, một phong trào bãi khóa lan rộng từ Nam chí Bắc để tỏ lòng thương tiếc nhà cách mạng lão thành. Học sinh trường Áo Tím nhiệt liệt hưởng ứng đưa đến kết quả một vài nữ sinh bị bắt và phải đuổi khỏi trường.
Năm 1940, quân đội Nhật chiếm đóng trường trong lúc học sinh nghỉ hè. Cũng trong năm này, trường đổi tên thành Collège Gia Long (Cao đẳng tiểu học Gia Long), rồi Lycée Gia Long (Trường trung học đệ nhị cấp Gia Long).
gia-long-5
Năm 1941:  tất cả thầy trò đều phải tản cư về trường tiểu học Đồ Chiểu (Tân Định). Ngay khi Nhật trao trả lại trường thì quân đội Anh tiếp thu làm trại lính, kéo dài trong 6 năm.
Năm 1947: khi được người Anh trao trả, trường bị hư hại nhiều đến nỗi vị hiệu trưởng lâm thời là cô Mailleret phải vận động mạnh thường quân quyên góp tài chính để lo việc tu sửa.
Năm 1949: trường lại được mở rộng: một tòa nhà hai tầng được xây mới ở đường Bà Huyện Thanh Quan để đáp ứng số lượng học sinh ngày càng tăng. Cũng trong năm 1949, nữ sinh trường cùng với nam sinh trường Trương Vĩnh Ký tổ chức bãi khóa kỷ niệm ngày Nam Kỳ Khởi Nghĩa dẫn đến việc trường bị nhà cầm quyền cho đóng cửa.
Quốc Gia Việt Nam
Năm 1950, sau một cuộc đấu tranh dài hơi có sự góp sức của đông đảo học sinh các trường khác ở khắp vùng Sài Gòn – Gia Định (trong số ấy có nhiều học sinh đã hy sinh, như Trần Văn Ơn của trường Trương Vĩnh Ký), trường được mở cửa lại và đánh dấu một sự kiện lớn: cô Nguyễn Thị Châu, cựu nữ sinh Áo Tím, là vị giáo sư Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm vào chức hiệu trưởng; đó là một niên học đáng ghi nhớ trong lịch sử của trường (Cô Châu qua đời tại Pháp năm 1996)
Đến 1952, chương trình giáo dục Việt dần thay thế chương trình giáo dục Pháp; nữ sinh phải học cả hai ngoại ngữ là Anh – Pháp song song. Kỳ thi tuyển vào trường rất khó và được đem so sánh với kỳ thi vào trường dành cho nam là Lycée Petrus Ký với số học sinh tham dự đến từ khắp nơi trong miền Nam: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Tân An…
Năm 1953, đồng phục áo dài tím được thay thế bằng áo dài trắng với phù hiệu bông Mai Vàng. Sau cùng là huy hiệu với tên trường Gia Long được thêu trên vải.
Thời Việt Nam Cộng Hòa
1954, chính quyền Việt Nam ra lệnh dùng tiếng Việt trong mọi cơ sở của người Việt và đương nhiên cả trong ngành giáo dục. Trong hệ thống mới, tiếng Anh, tiếng Pháp trở thành ngoại ngữ. Tên trường được gọi chính thức là Nữ trung học Gia Long.
ve-may-bay-di-Sai-Gon-300x225
Năm 1964 trường bỏ nội trú. Những dãy lầu từng được dùng làm nơi cư ngụ cho các học sinh nội trú được sửa thành lớp học. Buổi sáng có tất cả năm mươi lăm lớp học từ đệ Tứ đến đệ Nhất (lớp 9 đến lớp 12). Buổi chiều có tất cả bốn mươi lăm lớp từ đệ Thất đến đệ Ngũ (lớp 6 đến lớp 8). Tổng công sáng chiều trường có tất cả một trăm lớp học với tổng cộng 3000 học sinh. Trên bước đường phát triển, trường xây thêm: Thư Viện (1965), phòng Thí Nghiệm Lý Hóa (1966).
Năm 1967, mở rộng Giảng Đường nằm bên cạnh thư viện. Xây dựng sân khấu với mặt tiền chiếm hết chiều rộng của Giảng đường, đồng thời trang bị thêm đàn dương cầm. Cùng thời gian này, trường trang bị thêm Phòng nhiếp ảnh (nhưng chỉ hoạt động thời gian ngắn). Năm 1968, trường xây thêm hồ bơi đối diện thư viện.
Vào khoảng thập niên bảy mươi, kỳ thi tuyển vào đệ thất (lớp 6 ngày nay) mỗi năm có chừng bảy trăm nữ sinh trúng tuyển trong số hơn mười ngàn thí sinh. Một cuộc tuyển sinh vào hệ trung học trường vào khoảng năm 1971 được ghi nhận như sau: có tổng cộng 8000 học sinh ghi danh và thi tuyển nhưng chỉ có 819 đậu. Trường có độ hai trăm giáo sư và năm ngàn nữ sinh.
Thời gian này cũng là thời gian nữ sinh trường tham gia rất mạnh vào các phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam, trong đó một số học sinh đã tham gia trực tiếp vào Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, chính các phong trào như trên ở nữ sinh trường đã khiến cho nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng gọi nhiều thế hệ nữ sinh là: Áo Tím trên các nẻo đường đất nước.

Bài 3: THƯƠNG TIẾC LA DALAT
Huỳnh Ngọc Chênh – 16 /7/2013
la_dalat
Vào năm 1970, trên các thành thị lớn ở miền Nam đã xuất hiện chiếc ô tô mang thương hiệu Việt Nam chạy trên các đường phố, đó là xe La Dalat.
Một phần do giá rẻ, một phần do tự hào với thương hiệu ô tô đầu tiên được sản xuất trong nước, người tiêu dùng Việt Nam thời đó rất ưa chuộng chiếc La Dalat.
La Dalat do hãng Citreon của Pháp đầu tư lắp ráp tại Việt Nam với tỉ lệ nội địa hóa ban đầu là 25%. Đến năm 1975, khi hãng nầy buộc phải đóng cửa thì tỉ lệ nội địa hóa đã lên đến 40%.
Nếu sau 75, cứ để tiêp tục sản xuất xe La Dalat thì đến bây giờ, qua 40 năm, không những Việt Nam sản xuất được xe ô tô 100% nội địa mà còn xây dựng được ngành công nghiệp sản xuất ô tô chẳng thua kém ai.
Nếu tôi nhớ không nhầm, hồi Việt Nam có La Dalat thì Nhật Bản cũng bắt đầu tung ra thị trường những chiếc Toyota đầu tiên, còn Hàn Quốc thì chưa có gì cả.
Còn bây giờ thì, vào năm 2007, ngành công nghiệp ô tô, Nhật đứng nhất thế giới và Hàn Quốc đứng thứ 5. Còn Việt Nam …thì thôi khỏi nói.
Bây giờ đường phố Sài Gòn, Hà Nội cũng chật cứng xe hơi và chỉ thấy toàn Toyota, Hyundai, Kia, Honda, Ford, Mercedes…cho chúng mầy cong lưng ra sản xuất xe, chúng tao chỉ cần móc đất, phá rừng ra bán là sắm được thôi. Ka ka. Ai sướng hơn ai?

La Dalat: Chiếc xe hơi Made in Vietnam vang danh một thời

Kiều Châu – Bizlive – 17/ 10 /2014
ladalata
Từ năm 1970 cho đến 1975, Công ty Xe hơi Sài Gòn đã sản xuất hơn năm ngàn chiếc xe dân dụng La Dalat tại Việt Nam với mức độ nội địa hóa lên đến 40%.
Vào năm 1936, hãng chế tạo xe của Pháp Citroën đã thiết lập xưởng sản xuất đầu tiên ở Đông Dương với trụ sở ban đầu tại góc đường Lê Lợi – Nguyễn Huệ, ngày nay đã trở thành Caféteria Rex ở Sài Gòn. Sang đến thời Việt Nam Cộng hòa xưởng sản xuất được dời đi và đổi tên thành Công ty Xe hơi Citroën, tiếp đến là Công ty Xe hơi Saigon
Sau Thế chiến thứ 2, để đáp ứng nhu cầu về phương tiện di chuyển của dân Pháp đương thời, hãng chế tạo xe Citroën đã tung ra thị trường chiếc xe 2CV. Sau đó hãng này tiếp tục cho ra đời loại xe Citroën Dyane 6 và Méhari lần lượt vào cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60. Xe Citroën La Dalat sản xuất ở Việt Nam là loại xe dựa trên kiểu Citroën Méhari. Vào giữa thập niên 60, trước sức ép cạnh tranh từ các loại xe gắn máy 2 bánh: Honda, Suzuki, Yamaha, Kawasaki, Bridgestone…. cũng như các loại ô tô Toyota, Mazda, Mitsubishi, Nissan, Daihatsu… nhập khẩu từ Nhật Bản, hãng Citroën quyết định tung ra thị trường một loại xe thực dụng và rẻ tiền, loại xe mà các công ty sản xuất xe Nhật Bản không thể cạnh tranh được. Chiếc xe được đặt tên là La Dalat.Năm 1969, công ty Citroën mua bản quyền thiết kế của chiếc Baby Brousse từ công ty Ateliers et Forges de l’Ebrié.Tiếp đó, các kỹ sư của chi nhánh Société Automobile d’Extrême-Orient tại Sài Gòn bắt tay vào sản xuất và lắp ráp ngay tại Việt Nam một chiếc xe tuy không sang trọng và mạnh như xe Mỹ, nhưng giá thành và chất lượng ăn đứt tất cả các loại xe của Nhật.
Và chiếc La Dalat ra đời với 4 kiểu dáng khác nhau có phần máy và hệ thống tay lái, bộ nhún, bộ thắng… nhập cảng từ Pháp, trong khi, các bộ phận như đèn, kén báo hiệu, ghế nệm, dàn đồng đóng bằng tôn, mui xe bằng lá thép uốn hoặc vải,… được thiết kế và sản xuất ngay tại Sài Gòn Tuy dựa theo thiết kế của chiếc Baby Brousse, nhưng La Dalat được cải tiến để có thể sản xuất hàng loạt mà không đến cần máy ép thép công nghiệp hạng nặng như Baby Brousse.
Lúc tung ra thị trường vào năm 1970, tỷ lệ bộ phận nhập cảng so với bộ phận nội địa là 75/25 và đến năm 1975 khi hãng Citroën ngừng hoạt động, tỷ lệ này là 60/40. Có tất cả là 4 kiểu La Dalat: loại 4 chỗ ngồi hoặc 2 chỗ ngồi với thùng chở hàng.
Ước tính từ năm 1970 cho đến 1975, Công ty Xe hơi Sài Gòn sản xuất hơn năm ngàn chiếc La Dalat, tức là hơn một ngàn chiếc mỗi năm! Theo thiết kế, chiếc xe này sở hữu động cơ 4 thì, 602 phân khối, 2 xi-lanh đối ở 2 đầu nằm dẹp (flat twin), hộp số gồm 4 số tay, chuyền động ở trục bánh trước. Chiếc xe có chiều dài 3,5m; rộng 1,53m; cao 1,54m; nặng khoảng từ 480-590 kg tùy theo kiểu.

La Dalat được đánh giá là chiếc xe ít tốn xăng, dễ sửa chữa, dễ thay thế các bộ phận hỏng hóc, đặc biệt các bộ phận như cánh cửa, kính xe đều có thể “tự chế”, dễ làm hơn các loại xe Nhật và rẻ tiền. Các bộ phận rời được bán với giá phải chăng vì hoàn toàn được chế tạo tại Việt Nam Tiền thân là gốc Pháp nhưng La Dalat đã để lại dấu ấn không hề nhỏ mang tên Việt Nam. Năm 1973, ngạc nhiên và hài lòng với thành công đáng ngờ của Công ty Xe hơi Sài Gòn, Citroën đã sang Việt Nam lấy 3 chiếc La Dalat về Pháp để mổ xẻ phân tích thiết kế, từ đó họ cho ra đời kiểu khung xe dễ sản xuất mà không đòi hỏi đầu tư nhiều công nghệ như chiếc Baby Brousse mui trần thế hệ thứ hai hay chiếc FAF.
Bài viết được cập nhật lần cuối lúc 21:24 – 07/10/2014