Thứ Tư, 4 tháng 3, 2015

NHỚ SÀI GÒN XƯA


SAIGON TRƯỚC 1975
Bài 1: Sài Gòn và siêu thị đầu tiên ở Việt Nam
Phạm Công Luận – Theo Thanh Niên – 26 Feb 2015
Siêu thị Nguyễn Du, khu siêu thị đầu tiên ở Sài Gòn và có thể nói là toàn cõi VN mở cửa năm 1967, mang đến cho nhiều gia đình công tư chức ở Sài Gòn những tiện lợi trong chuyện mua sắm mà trước đó không hề có.
kieuchinh_bayi
Diễn viên điện ảnh Kiều Chinh đến mua hàng tại siêu thị Nguyễn Du
Một dịp sát tết, tôi được đến siêu thị với anh trai, thấy nó giống một cửa hàng cực lớn, máy lạnh mát rượi và đầy những thứ lạ lẫm. Khách mua hàng toàn những người lớn ăn bận lịch sự, nam với áo chemise bỏ vào quần, những người lính và nhiều phụ nữ bận áo dài. Do xe đẩy không có nhiều như bây giờ, khách mua hàng toát mồ hôi sắp hàng tính tiền, tay lủ khủ hàng hóa trong những cái túi lưới.
Siêu thị Nguyễn Du được thiết lập ở góc đường Nguyễn Du và Chu Mạnh Trinh, Sài Gòn (hai con đường này nay thuộc quận 1, tên đường không thay đổi cho đến nay) do Tổng cuộc Tiếp tế thành lập. Theo một số tài liệu, năm 1966, ông Trần Đỗ Cung, đứng đầu cơ quan trên được giao nhiệm vụ quân bình thị trường. Ngoài việc cấp bách như giải quyết những việc cần thiết cho đời sống người dân như nhập xe gắn máy, điều hòa việc phân phối thịt heo, gạo, ông dự tính thiết lập tại VN các trung tâm bán lẻ để phục vụ đại chúng, nhất là những người có đồng lương ổn định.
sieuthinguyendu_imcd
Đầu tháng 2.1967, một phái đoàn do ông Cung cử ra đã đến thăm chợ Mỹ (Commissary) ở đường Hùng Vương, Chợ Lớn để quan sát hoạt động cùng cách tổ chức của cơ sở này. Sau đó một tuần, ông Trần Đỗ Cung cùng một chuyên viên tài chính lên đường đi Philippines theo lời mời của Tập đoàn siêu thị Makati ở thủ đô Manila để nghiên cứu về quản lý, kiểm soát, tổ chức và sản xuất thực phẩm. Họ còn tiếp tục đến Hồng Kông, Singapore để tham quan các siêu thị. Sau đó, tổ chức đào tạo về cách vận hành siêu thị cho nhân viên và tổ chức một khu chợ tết vào tháng 1.1967, vừa để phục vụ việc mua sắm tết vừa tổ chức buôn bán theo hình thức mới để huấn luyện nhân viên của mình.
Theo hồi ký của ông Trần Đỗ Cung xuất bản tại Mỹ năm 2011, một kiến trúc sư người Đức tên Meier đã được thuê vẽ họa đồ xây cất siêu thị, phối hợp với Công ty NCR về trang bị, thiết bị bên trong. Ngày 16.10.1967, siêu thị đầu tiên ở VN chính thức ra đời, mở đầu một kỷ nguyên mới cho ngành bán lẻ. Từ cửa vào, khách đi tay không vô siêu thị bằng một cửa quay, tự lấy một giỏ xách hay xe đẩy và đi lựa chọn hàng đã ghi sẵn giá trên kệ. Chọn xong, họ tính tiền ở các quầy thu ngân có máy tính tự động. Siêu thị này có 6 quầy thu ngân ở cửa ra, trong đó có một “quầy hỏa tốc” dành cho những người mua ít hàng. Còn có một lối ra cho người không mua hàng. Cách thức không khác gì siêu thị ngày nay, nhưng khi nó được áp dụng cách nay gần 50 năm thì là một sự ngạc nhiên và kỳ thú đối với khách mua hàng Sài Gòn. Trong hồi ký, tác giả tả không khí lúc đó: “Siêu thị đã hoàn tất trên đường Nguyễn Du, có bãi đậu xe rộng rãi. Ngày khai trương cả đoàn xe Honda, Mobylette và Vespa rầm rập kéo đến chở vợ con hí hửng bước vào ngôi chợ tối tân mới mở cửa, phục dịch khách mua hàng một cách niềm nở và lịch sự”.
sieu-thi-1_yenl
Sau khi khai trương hơn một tháng, siêu thị Nguyễn Du tổ chức một sự kiện đánh dấu sự thành công của mình. Khi người khách thứ 100.000 đến đây và đặt tay vào cửa quay, loa phóng thanh phát to: “Hoan nghênh công dân siêu thị thứ 100.000, là anh Lê Văn Sâm…”. Anh được choàng băng kỷ niệm và được ông quản đốc trao tặng giải thưởng trị giá 10.000 đồng.
Siêu thị Nguyễn Du nằm trên diện tích 30.000 m2, ở một khu phố còn vắng vẻ không phù hợp cho việc buôn bán lắm nhưng khi siêu thị được lập ra, số khách hàng lui tới được đánh giá là “ngoài mức tưởng tượng”. Trung bình mỗi ngày có khoảng 2.500 người đến mua sắm và doanh thu mỗi ngày tối đa là 1,5 triệu đồng thời đó.
sieuthi2_pzvy
Trước khi siêu thị được thành lập, trong giới doanh thương Sài Gòn, tuy rất nhanh nhạy với cái mới đã có nhiều ý kiến cho rằng đây là việc làm “không tưởng”. Tuy nhiên, Tổng cuộc Tiếp tế với ý định sẽ thiết lập các chuỗi dây chuyền siêu thị tư nhân đã không chùn bước. Sau khi siêu thị này hình thành ít lâu, họ nhận được nhiều thư tán thưởng và nhiều tư nhân tấp nập gửi đơn đến đề nghị cộng tác thiết lập siêu thị tư nhân dưới hình thức này hay hình thức khác. Đến tháng 12, đã có hai siêu thị tư nhân cỡ nhỏ là An Đông và Đoàn Thị Điểm mở ra. Cái thứ ba ở Biên Hòa được trang bị để mở vào Tết Mậu Thân năm 1968.
Siêu thị này và những siêu thị nhỏ khác ở Sài Gòn và các vùng lân cận hoạt động đến 1975 thì chấm dứt. Sau đó là khoảng thời gian vắng bóng siêu thị cho đến gần 20 năm sau mới xuất hiện trở lại (khoảng 1993). Đến nay nhiều người vẫn cho rằng, siêu thị ở VN bắt đầu quá muộn mà không biết nó đã hình thành từ gần nửa thế kỷ nay và đã được tổ chức hoạt động rất tốt không khác gì các siêu thị bây giờ.
sieuthisgtruoc1975_bqjo
Đi trước cả Bangkok
Sau khi siêu thị Nguyễn Du được thành lập không lâu, ông Cung được SMI (Viện Siêu thị – Super Marketing Institute) mời qua Bangkok (Thái Lan) gặp các nhà buôn Thái để trình bày kinh nghiệm khi hình thành siêu thị đầu tiên này. Như vậy, dù đang trong hoàn cảnh chiến tranh, Sài Gòn đã đi trước Bangkok, một thành phố lớn sống trong hòa bình về việc buôn bán lẻ qua hệ thống siêu thị.
Bài 2: Trường Nữ trung học Gia Long
By Saigon Xưa – Hòn Ngọc Viễn Đông tổng hợp – 11 July 2012
gia-long-3
Trường Nữ trung học Gia Long còn được gọi là  trường nữ sinh Áo Tím là một trường trung học phổ thông công lập ở Sài Gòn. Được thành lập từ năm 1913, cho đến nay trường Gia Long là một trong những trường phổ thông lâu đời nhất của nền giáo dục Việt Nam.
Thời Pháp thuộc
Khoảng đầu thế kỷ 20, nền giáo dục ở Việt Nam còn mang tính chất Nho giáo nên ít chú trọng đến giáo dục nữ giới. Xuất phát từ ý định tha thiết muốn xây dựng một nền giáo dục cho nữ giới, năm 1908, nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của Tổng Đốc Phương và một số nhân sĩ trí thức đã đề nghị chính quyền thực dân Pháp thành lập một ngôi trường Sơ Học Cao Đẳng (bậc tiểu học) dành cho nữ.
Năm 1909, đơn đã được Hội Đồng Quản Hạt chấp thuận nhưng chưa có kinh phí để thực hiện. Mãi đến ngày 6 tháng 11 năm 1913, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường Nữ Học Đường Sài Gòn mới được cử hành. Trường được xây dựng trên một khu đất rộng ở đường Legrand de la Liraye, sau đổi tên là đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ), bên phải là đường Bà Huyện Thanh Quan, bên trái là Đoàn Thị Điểm (Trương Định ngày nay), phía sau là Ngô Thời Nhiệm, thuộc thành phố Sài Gòn.
Hai năm sau, ngày 19 tháng 10 năm 1915, Toàn Quyền Ernest Nestor Roume và Thống Đốc Courbell làm khánh thành. Trong buổi lễ trọng thể này, ban tổ chức đã chọn màu tím làm màu áo đồng phục cho nữ sinh, tượng trưng đức tính đoan trang, kín đáo và khiêm nhường của người thiếu nữ Việt Nam. Từ đó, trường thường được gọi là “Trường Áo Tím”.
Khóa đầu tiên trường tuyển 42 nữ sinh, Các học sinh đầu tiên của Trường thuộc những gia đình sống ở Sài Gòn và các vùng phụ cận. Dần dần, có nhiều học sinh từ các tỉnh lên học nên Trường bắt đầu có nội trú.
gia-long-1
Trường đào tạo thành nhiều lớp: Đồng ấu (Enfantin), Cao đẳng (Supérieur). Năm cuối Sơ học (CEP), học sinh phải thi lấy Chứng chỉ Căn bản Giáo dục sau khi tốt nghiệp những lớp cao cấp.
Trong những năm 1917 – 1922, vì số lượng học sinh gia tăng, trường xây dựng thêm một tòa nhà thứ hai song song với tòa nhà cũ.. Các phòng trên lầu được dùng làm phòng ngủ nội trú cho các học sinh xa nhà. Cách một sân cỏ, là một dãy nhà sau, thấp, sát với vách tường rào. Ở đó có bệnh thất, các lớp nữ công gia chánh, phòng giặt và xếp quần áo học sinh nội trú, cuối cùng là nhà bếp.
Tháng 9 năm 1922, Toàn Quyền Albert Sarraut cắt băng khánh thành Ban Trung Học Nữ Học Đường. Một phiến đá bằng cẩm thạch khắc chữ Collège Des Jeunes Filles Indigènes (Trường Của Những Thiếu Nữ Bản Xứ) được dựng lên trước cổng trường, tuy nhiên trường vẫn được biết đến nhiều hơn với cái tên Trường Nữ Sinh Áo Tím.
Bà Lagrange, vợ một ông Chánh Tham Biện người Pháp, được bổ nhiệm làm Hiệu Trưởng ban trung học. Trường mở từ lớp đệ thất niên (lớp 6 bây giờ) đến lớp đệ tứ niên (lớp 9 bây giờ), chỉ thu nhận nữ sinh có bằng Sơ Học và kỳ thi tuyển vào trường.
Lúc đầu, các nữ sinh đậu vào lớp đệ nhất (lớp 12 bây giờ) thì học ban Sư Phạm, sau bốn năm ra làm giáo viên. Hoặc theo ban Phổ Thông. Cả hai ban đều học một chương trình để tốt nghiệp lấy bằng Thành Chung (DEPSI).
Từ lớp Dự Bị (Préparatoire) tức là lớp Hai bây giờ, học sinh đã bắt đầu học Pháp Văn. Ban Trung Học hoàn toàn được giảng dạy bằng tiếng Pháp. Mỗi tuần chỉ có hai giờ Việt Ngữ. Trong trường học sinh bị bắt buộc phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Mỗi lần bị bắt gặp nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, phải chịu phạt một hay hai xu. Nhưng hình phạt không mấy khi thi hành.
Tuy trường khi này do người Pháp quản lý nhưng phong trào đấu tranh chống thực dân trong học sinh vẫn âm ỉ, ít nhất đã hai lần nữ sinh trường xuống đường. Lần thứ 1 vào đầu năm 1920,  khi một giáo viên người Pháp yêu cầu học sinh người Việt phải nhường ghế ở hàng đầu cho học sinh người Pháp ngồi. Lần thứ 2 vào năm 1926, nhân đám tang cụ Phan Chu Trinh, một phong trào bãi khóa lan rộng từ Nam chí Bắc để tỏ lòng thương tiếc nhà cách mạng lão thành. Học sinh trường Áo Tím nhiệt liệt hưởng ứng đưa đến kết quả một vài nữ sinh bị bắt và phải đuổi khỏi trường.
Năm 1940, quân đội Nhật chiếm đóng trường trong lúc học sinh nghỉ hè. Cũng trong năm này, trường đổi tên thành Collège Gia Long (Cao đẳng tiểu học Gia Long), rồi Lycée Gia Long (Trường trung học đệ nhị cấp Gia Long).
gia-long-5
Năm 1941:  tất cả thầy trò đều phải tản cư về trường tiểu học Đồ Chiểu (Tân Định). Ngay khi Nhật trao trả lại trường thì quân đội Anh tiếp thu làm trại lính, kéo dài trong 6 năm.
Năm 1947: khi được người Anh trao trả, trường bị hư hại nhiều đến nỗi vị hiệu trưởng lâm thời là cô Mailleret phải vận động mạnh thường quân quyên góp tài chính để lo việc tu sửa.
Năm 1949: trường lại được mở rộng: một tòa nhà hai tầng được xây mới ở đường Bà Huyện Thanh Quan để đáp ứng số lượng học sinh ngày càng tăng. Cũng trong năm 1949, nữ sinh trường cùng với nam sinh trường Trương Vĩnh Ký tổ chức bãi khóa kỷ niệm ngày Nam Kỳ Khởi Nghĩa dẫn đến việc trường bị nhà cầm quyền cho đóng cửa.
Quốc Gia Việt Nam
Năm 1950, sau một cuộc đấu tranh dài hơi có sự góp sức của đông đảo học sinh các trường khác ở khắp vùng Sài Gòn – Gia Định (trong số ấy có nhiều học sinh đã hy sinh, như Trần Văn Ơn của trường Trương Vĩnh Ký), trường được mở cửa lại và đánh dấu một sự kiện lớn: cô Nguyễn Thị Châu, cựu nữ sinh Áo Tím, là vị giáo sư Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm vào chức hiệu trưởng; đó là một niên học đáng ghi nhớ trong lịch sử của trường (Cô Châu qua đời tại Pháp năm 1996)
Đến 1952, chương trình giáo dục Việt dần thay thế chương trình giáo dục Pháp; nữ sinh phải học cả hai ngoại ngữ là Anh – Pháp song song. Kỳ thi tuyển vào trường rất khó và được đem so sánh với kỳ thi vào trường dành cho nam là Lycée Petrus Ký với số học sinh tham dự đến từ khắp nơi trong miền Nam: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Tân An…
Năm 1953, đồng phục áo dài tím được thay thế bằng áo dài trắng với phù hiệu bông Mai Vàng. Sau cùng là huy hiệu với tên trường Gia Long được thêu trên vải.
Thời Việt Nam Cộng Hòa
1954, chính quyền Việt Nam ra lệnh dùng tiếng Việt trong mọi cơ sở của người Việt và đương nhiên cả trong ngành giáo dục. Trong hệ thống mới, tiếng Anh, tiếng Pháp trở thành ngoại ngữ. Tên trường được gọi chính thức là Nữ trung học Gia Long.
ve-may-bay-di-Sai-Gon-300x225
Năm 1964 trường bỏ nội trú. Những dãy lầu từng được dùng làm nơi cư ngụ cho các học sinh nội trú được sửa thành lớp học. Buổi sáng có tất cả năm mươi lăm lớp học từ đệ Tứ đến đệ Nhất (lớp 9 đến lớp 12). Buổi chiều có tất cả bốn mươi lăm lớp từ đệ Thất đến đệ Ngũ (lớp 6 đến lớp 8). Tổng công sáng chiều trường có tất cả một trăm lớp học với tổng cộng 3000 học sinh. Trên bước đường phát triển, trường xây thêm: Thư Viện (1965), phòng Thí Nghiệm Lý Hóa (1966).
Năm 1967, mở rộng Giảng Đường nằm bên cạnh thư viện. Xây dựng sân khấu với mặt tiền chiếm hết chiều rộng của Giảng đường, đồng thời trang bị thêm đàn dương cầm. Cùng thời gian này, trường trang bị thêm Phòng nhiếp ảnh (nhưng chỉ hoạt động thời gian ngắn). Năm 1968, trường xây thêm hồ bơi đối diện thư viện.
Vào khoảng thập niên bảy mươi, kỳ thi tuyển vào đệ thất (lớp 6 ngày nay) mỗi năm có chừng bảy trăm nữ sinh trúng tuyển trong số hơn mười ngàn thí sinh. Một cuộc tuyển sinh vào hệ trung học trường vào khoảng năm 1971 được ghi nhận như sau: có tổng cộng 8000 học sinh ghi danh và thi tuyển nhưng chỉ có 819 đậu. Trường có độ hai trăm giáo sư và năm ngàn nữ sinh.
Thời gian này cũng là thời gian nữ sinh trường tham gia rất mạnh vào các phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam, trong đó một số học sinh đã tham gia trực tiếp vào Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, chính các phong trào như trên ở nữ sinh trường đã khiến cho nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng gọi nhiều thế hệ nữ sinh là: Áo Tím trên các nẻo đường đất nước.

Bài 3: THƯƠNG TIẾC LA DALAT
Huỳnh Ngọc Chênh – 16 /7/2013
la_dalat
Vào năm 1970, trên các thành thị lớn ở miền Nam đã xuất hiện chiếc ô tô mang thương hiệu Việt Nam chạy trên các đường phố, đó là xe La Dalat.
Một phần do giá rẻ, một phần do tự hào với thương hiệu ô tô đầu tiên được sản xuất trong nước, người tiêu dùng Việt Nam thời đó rất ưa chuộng chiếc La Dalat.
La Dalat do hãng Citreon của Pháp đầu tư lắp ráp tại Việt Nam với tỉ lệ nội địa hóa ban đầu là 25%. Đến năm 1975, khi hãng nầy buộc phải đóng cửa thì tỉ lệ nội địa hóa đã lên đến 40%.
Nếu sau 75, cứ để tiêp tục sản xuất xe La Dalat thì đến bây giờ, qua 40 năm, không những Việt Nam sản xuất được xe ô tô 100% nội địa mà còn xây dựng được ngành công nghiệp sản xuất ô tô chẳng thua kém ai.
Nếu tôi nhớ không nhầm, hồi Việt Nam có La Dalat thì Nhật Bản cũng bắt đầu tung ra thị trường những chiếc Toyota đầu tiên, còn Hàn Quốc thì chưa có gì cả.
Còn bây giờ thì, vào năm 2007, ngành công nghiệp ô tô, Nhật đứng nhất thế giới và Hàn Quốc đứng thứ 5. Còn Việt Nam …thì thôi khỏi nói.
Bây giờ đường phố Sài Gòn, Hà Nội cũng chật cứng xe hơi và chỉ thấy toàn Toyota, Hyundai, Kia, Honda, Ford, Mercedes…cho chúng mầy cong lưng ra sản xuất xe, chúng tao chỉ cần móc đất, phá rừng ra bán là sắm được thôi. Ka ka. Ai sướng hơn ai?

La Dalat: Chiếc xe hơi Made in Vietnam vang danh một thời

Kiều Châu – Bizlive – 17/ 10 /2014
ladalata
Từ năm 1970 cho đến 1975, Công ty Xe hơi Sài Gòn đã sản xuất hơn năm ngàn chiếc xe dân dụng La Dalat tại Việt Nam với mức độ nội địa hóa lên đến 40%.
Vào năm 1936, hãng chế tạo xe của Pháp Citroën đã thiết lập xưởng sản xuất đầu tiên ở Đông Dương với trụ sở ban đầu tại góc đường Lê Lợi – Nguyễn Huệ, ngày nay đã trở thành Caféteria Rex ở Sài Gòn. Sang đến thời Việt Nam Cộng hòa xưởng sản xuất được dời đi và đổi tên thành Công ty Xe hơi Citroën, tiếp đến là Công ty Xe hơi Saigon
Sau Thế chiến thứ 2, để đáp ứng nhu cầu về phương tiện di chuyển của dân Pháp đương thời, hãng chế tạo xe Citroën đã tung ra thị trường chiếc xe 2CV. Sau đó hãng này tiếp tục cho ra đời loại xe Citroën Dyane 6 và Méhari lần lượt vào cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60. Xe Citroën La Dalat sản xuất ở Việt Nam là loại xe dựa trên kiểu Citroën Méhari. Vào giữa thập niên 60, trước sức ép cạnh tranh từ các loại xe gắn máy 2 bánh: Honda, Suzuki, Yamaha, Kawasaki, Bridgestone…. cũng như các loại ô tô Toyota, Mazda, Mitsubishi, Nissan, Daihatsu… nhập khẩu từ Nhật Bản, hãng Citroën quyết định tung ra thị trường một loại xe thực dụng và rẻ tiền, loại xe mà các công ty sản xuất xe Nhật Bản không thể cạnh tranh được. Chiếc xe được đặt tên là La Dalat.Năm 1969, công ty Citroën mua bản quyền thiết kế của chiếc Baby Brousse từ công ty Ateliers et Forges de l’Ebrié.Tiếp đó, các kỹ sư của chi nhánh Société Automobile d’Extrême-Orient tại Sài Gòn bắt tay vào sản xuất và lắp ráp ngay tại Việt Nam một chiếc xe tuy không sang trọng và mạnh như xe Mỹ, nhưng giá thành và chất lượng ăn đứt tất cả các loại xe của Nhật.
Và chiếc La Dalat ra đời với 4 kiểu dáng khác nhau có phần máy và hệ thống tay lái, bộ nhún, bộ thắng… nhập cảng từ Pháp, trong khi, các bộ phận như đèn, kén báo hiệu, ghế nệm, dàn đồng đóng bằng tôn, mui xe bằng lá thép uốn hoặc vải,… được thiết kế và sản xuất ngay tại Sài Gòn Tuy dựa theo thiết kế của chiếc Baby Brousse, nhưng La Dalat được cải tiến để có thể sản xuất hàng loạt mà không đến cần máy ép thép công nghiệp hạng nặng như Baby Brousse.
Lúc tung ra thị trường vào năm 1970, tỷ lệ bộ phận nhập cảng so với bộ phận nội địa là 75/25 và đến năm 1975 khi hãng Citroën ngừng hoạt động, tỷ lệ này là 60/40. Có tất cả là 4 kiểu La Dalat: loại 4 chỗ ngồi hoặc 2 chỗ ngồi với thùng chở hàng.
Ước tính từ năm 1970 cho đến 1975, Công ty Xe hơi Sài Gòn sản xuất hơn năm ngàn chiếc La Dalat, tức là hơn một ngàn chiếc mỗi năm! Theo thiết kế, chiếc xe này sở hữu động cơ 4 thì, 602 phân khối, 2 xi-lanh đối ở 2 đầu nằm dẹp (flat twin), hộp số gồm 4 số tay, chuyền động ở trục bánh trước. Chiếc xe có chiều dài 3,5m; rộng 1,53m; cao 1,54m; nặng khoảng từ 480-590 kg tùy theo kiểu.

La Dalat được đánh giá là chiếc xe ít tốn xăng, dễ sửa chữa, dễ thay thế các bộ phận hỏng hóc, đặc biệt các bộ phận như cánh cửa, kính xe đều có thể “tự chế”, dễ làm hơn các loại xe Nhật và rẻ tiền. Các bộ phận rời được bán với giá phải chăng vì hoàn toàn được chế tạo tại Việt Nam Tiền thân là gốc Pháp nhưng La Dalat đã để lại dấu ấn không hề nhỏ mang tên Việt Nam. Năm 1973, ngạc nhiên và hài lòng với thành công đáng ngờ của Công ty Xe hơi Sài Gòn, Citroën đã sang Việt Nam lấy 3 chiếc La Dalat về Pháp để mổ xẻ phân tích thiết kế, từ đó họ cho ra đời kiểu khung xe dễ sản xuất mà không đòi hỏi đầu tư nhiều công nghệ như chiếc Baby Brousse mui trần thế hệ thứ hai hay chiếc FAF.
Bài viết được cập nhật lần cuối lúc 21:24 – 07/10/2014


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét