Bài 1: Sài Gòn và
siêu thị đầu tiên ở Việt Nam
Phạm
Công Luận – Theo Thanh Niên – 26 Feb 2015
Siêu thị Nguyễn Du, khu siêu thị đầu tiên ở
Sài Gòn và có thể nói là toàn cõi VN mở cửa năm 1967, mang đến cho nhiều gia
đình công tư chức ở Sài Gòn những tiện lợi trong chuyện mua sắm mà trước đó
không hề có.
Diễn viên điện ảnh Kiều Chinh đến mua hàng tại siêu thị Nguyễn Du
Một dịp
sát tết, tôi được đến siêu thị với anh trai, thấy nó giống một cửa hàng cực
lớn, máy lạnh mát rượi và đầy những thứ lạ lẫm. Khách mua hàng toàn những người
lớn ăn bận lịch sự, nam với áo chemise bỏ vào quần, những người lính và nhiều
phụ nữ bận áo dài. Do xe đẩy không có nhiều như bây giờ, khách mua hàng toát mồ
hôi sắp hàng tính tiền, tay lủ khủ hàng hóa trong những cái túi lưới.
Siêu
thị Nguyễn Du được thiết lập ở góc đường Nguyễn Du và Chu Mạnh Trinh, Sài Gòn
(hai con đường này nay thuộc quận 1, tên đường không thay đổi cho đến nay) do
Tổng cuộc Tiếp tế thành lập. Theo một số tài liệu, năm 1966, ông Trần Đỗ Cung,
đứng đầu cơ quan trên được giao nhiệm vụ quân bình thị trường. Ngoài việc cấp
bách như giải quyết những việc cần thiết cho đời sống người dân như nhập xe gắn
máy, điều hòa việc phân phối thịt heo, gạo, ông dự tính thiết lập tại VN các
trung tâm bán lẻ để phục vụ đại chúng, nhất là những người có đồng lương ổn định.
Đầu
tháng 2.1967, một phái đoàn do ông Cung cử ra đã đến thăm chợ Mỹ (Commissary) ở
đường Hùng Vương, Chợ Lớn để quan sát hoạt động cùng cách tổ chức của cơ sở
này. Sau đó một tuần, ông Trần Đỗ Cung cùng một chuyên viên tài chính lên đường
đi Philippines theo lời mời của Tập đoàn siêu thị Makati ở thủ đô Manila để
nghiên cứu về quản lý, kiểm soát, tổ chức và sản xuất thực phẩm. Họ còn tiếp
tục đến Hồng Kông , Singapore để tham quan các siêu
thị. Sau đó, tổ chức đào tạo về cách vận hành siêu thị cho nhân viên và tổ chức
một khu chợ tết vào tháng 1.1967, vừa để phục vụ việc mua sắm tết vừa tổ chức
buôn bán theo hình thức mới để huấn luyện nhân viên của mình.
Theo
hồi ký của ông Trần Đỗ Cung xuất bản tại Mỹ năm 2011, một kiến trúc sư người
Đức tên Meier đã được thuê vẽ họa đồ xây cất siêu thị, phối hợp với Công ty NCR
về trang bị, thiết bị bên trong. Ngày 16.10.1967, siêu thị đầu tiên ở VN chính
thức ra đời, mở đầu một kỷ nguyên mới cho ngành bán lẻ. Từ cửa vào, khách đi
tay không vô siêu thị bằng một cửa quay, tự lấy một giỏ xách hay xe đẩy và đi
lựa chọn hàng đã ghi sẵn giá trên kệ. Chọn xong, họ tính tiền ở các quầy thu
ngân có máy tính tự động. Siêu thị này có 6 quầy thu ngân ở cửa ra, trong đó có
một “quầy hỏa tốc” dành cho những người mua ít hàng. Còn có một lối ra cho
người không mua hàng. Cách thức không khác gì siêu thị ngày nay, nhưng khi nó
được áp dụng cách nay gần 50 năm thì là một sự ngạc nhiên và kỳ thú đối với
khách mua hàng Sài Gòn. Trong hồi ký, tác giả tả không khí lúc đó: “Siêu thị đã
hoàn tất trên đường Nguyễn Du, có bãi đậu xe rộng rãi. Ngày khai trương cả đoàn
xe Honda, Mobylette và Vespa rầm rập kéo đến chở vợ con hí hửng bước vào ngôi
chợ tối tân mới mở cửa, phục dịch khách mua hàng một cách niềm nở và lịch sự”.
Sau khi
khai trương hơn một tháng, siêu thị Nguyễn Du tổ chức một sự kiện đánh dấu sự
thành công của mình. Khi người khách thứ 100.000 đến đây và đặt tay vào cửa
quay, loa phóng thanh phát to: “Hoan nghênh công dân siêu thị thứ 100.000, là
anh Lê Văn Sâm…”. Anh được choàng băng kỷ niệm và được ông quản đốc trao tặng
giải thưởng trị giá 10.000 đồng.
Siêu
thị Nguyễn Du nằm trên diện tích 30.000 m2, ở một khu phố còn vắng vẻ không phù
hợp cho việc buôn bán lắm nhưng khi siêu thị được lập ra, số khách hàng lui tới
được đánh giá là “ngoài mức tưởng tượng”. Trung bình mỗi ngày có khoảng 2.500
người đến mua sắm và doanh thu mỗi ngày tối đa là 1,5 triệu đồng thời đó.
Trước
khi siêu thị được thành lập, trong giới doanh thương Sài Gòn, tuy rất nhanh
nhạy với cái mới đã có nhiều ý kiến cho rằng đây là việc làm “không tưởng”. Tuy
nhiên, Tổng cuộc Tiếp tế với ý định sẽ thiết lập các chuỗi dây chuyền siêu thị
tư nhân đã không chùn bước. Sau khi siêu thị này hình thành ít lâu, họ nhận
được nhiều thư tán thưởng và nhiều tư nhân tấp nập gửi đơn đến đề nghị cộng tác
thiết lập siêu thị tư nhân dưới hình thức này hay hình thức khác. Đến tháng 12,
đã có hai siêu thị tư nhân cỡ nhỏ là An Đông và Đoàn Thị Điểm mở ra. Cái thứ ba
ở Biên Hòa được trang bị để mở vào Tết Mậu Thân năm 1968.
Siêu
thị này và những siêu thị nhỏ khác ở Sài Gòn và các vùng lân cận hoạt động đến
1975 thì chấm dứt. Sau đó là khoảng thời gian vắng bóng siêu thị cho đến gần 20
năm sau mới xuất hiện trở lại (khoảng 1993). Đến nay nhiều người vẫn cho rằng,
siêu thị ở VN bắt đầu quá muộn mà không biết nó đã hình thành từ gần nửa thế kỷ
nay và đã được tổ chức hoạt động rất tốt không khác gì các siêu thị bây giờ.
Đi trước cả Bangkok
Sau khi
siêu thị Nguyễn Du được thành lập không lâu, ông Cung được SMI (Viện Siêu thị –
Super Marketing Institute) mời qua Bangkok (Thái Lan) gặp các nhà buôn Thái để
trình bày kinh nghiệm khi hình thành siêu thị đầu tiên này. Như vậy, dù đang
trong hoàn cảnh chiến tranh, Sài Gòn đã đi trước Bangkok, một thành phố lớn
sống trong hòa bình về việc buôn bán lẻ qua hệ thống siêu thị.
Bài 2: Trường Nữ
trung học Gia Long
By Saigon Xưa – Hòn
Ngọc Viễn Đông tổng hợp –
11 July 2012
Trường Nữ trung học Gia Long còn được gọi là
trường nữ sinh Áo Tím là một trường trung học phổ thông công
lập ở Sài Gòn. Được thành lập từ năm 1913, cho đến nay trường Gia Long là một trong những trường phổ
thông lâu đời nhất của nền giáo dục Việt Nam .
Thời Pháp thuộc
Khoảng
đầu thế kỷ 20, nền giáo dục ở Việt Nam còn mang tính chất Nho
giáo nên ít chú trọng đến giáo dục nữ giới. Xuất phát từ ý định tha
thiết muốn xây dựng một nền giáo dục cho nữ giới, năm 1908, nghị viên Hội
đồng Quản hạt Nam Kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của Tổng Đốc
Phương và một số nhân sĩ trí thức đã đề nghị chính quyền thực dân
Pháp thành lập một ngôi trường Sơ Học Cao Đẳng (bậc tiểu học) dành cho nữ.
Năm
1909, đơn đã được Hội Đồng Quản Hạt chấp thuận nhưng chưa có kinh phí để thực
hiện. Mãi đến ngày 6 tháng 11 năm 1913, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường
Nữ Học Đường Sài Gòn mới được cử hành. Trường được xây dựng trên một khu đất
rộng ở đường Legrand de la Liraye, sau đổi tên là đường Phan Thanh Giản (nay là
Điện Biên Phủ), bên phải là đường Bà Huyện Thanh Quan, bên trái là Đoàn Thị
Điểm (Trương Định ngày nay), phía sau là Ngô Thời Nhiệm, thuộc thành phố Sài Gòn.
Hai năm
sau, ngày 19 tháng 10 năm 1915, Toàn Quyền Ernest Nestor Roume và Thống
Đốc Courbell làm khánh thành. Trong buổi lễ trọng thể này, ban tổ chức đã chọn
màu tím làm màu áo đồng phục cho nữ sinh, tượng trưng đức tính đoan trang, kín
đáo và khiêm nhường của người thiếu nữ Việt Nam . Từ đó, trường thường
được gọi là “Trường Áo Tím”.
Khóa
đầu tiên trường tuyển 42 nữ sinh, Các học sinh đầu tiên của Trường thuộc
những gia đình sống ở Sài Gòn và các vùng phụ cận. Dần dần, có nhiều học sinh
từ các tỉnh lên học nên Trường bắt đầu có nội trú.
Trường
đào tạo thành nhiều lớp: Đồng ấu (Enfantin), Cao đẳng (Supérieur). Năm cuối Sơ
học (CEP), học sinh phải thi lấy Chứng chỉ Căn bản Giáo dục sau khi tốt nghiệp
những lớp cao cấp.
Trong
những năm 1917 – 1922, vì số lượng học sinh gia tăng, trường xây dựng thêm một
tòa nhà thứ hai song song với tòa nhà cũ.. Các phòng trên lầu được dùng làm
phòng ngủ nội trú cho các học sinh xa nhà. Cách một sân cỏ, là một dãy nhà sau,
thấp, sát với vách tường rào. Ở đó có bệnh thất, các lớp nữ công gia chánh,
phòng giặt và xếp quần áo học sinh nội trú, cuối cùng là nhà bếp.
Tháng 9 năm 1922, Toàn Quyền Albert Sarraut cắt băng khánh thành
Ban Trung Học Nữ Học Đường. Một phiến đá bằng cẩm thạch khắc chữ Collège Des Jeunes Filles
Indigènes (Trường Của
Những Thiếu Nữ Bản Xứ) được dựng lên trước cổng trường, tuy nhiên trường vẫn
được biết đến nhiều hơn với cái tên Trường Nữ Sinh Áo Tím.
Bà
Lagrange, vợ một ông Chánh Tham Biện người Pháp, được bổ nhiệm làm Hiệu Trưởng
ban trung học. Trường mở từ lớp đệ thất niên (lớp 6 bây giờ) đến lớp đệ tứ niên
(lớp 9 bây giờ), chỉ thu nhận nữ sinh có bằng Sơ Học và kỳ thi tuyển vào
trường.
Lúc
đầu, các nữ sinh đậu vào lớp đệ nhất (lớp 12 bây giờ) thì học ban Sư Phạm, sau
bốn năm ra làm giáo viên. Hoặc theo ban Phổ Thông. Cả hai ban đều học một
chương trình để tốt nghiệp lấy bằng Thành Chung (DEPSI).
Từ lớp
Dự Bị (Préparatoire) tức là lớp Hai bây giờ, học sinh đã bắt đầu học Pháp Văn.
Ban Trung Học hoàn toàn được giảng dạy bằng tiếng Pháp. Mỗi tuần chỉ có hai giờ
Việt Ngữ. Trong trường học sinh bị bắt buộc phải nói chuyện với nhau bằng
tiếng Pháp. Mỗi lần bị bắt gặp nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, phải chịu
phạt một hay hai xu. Nhưng hình phạt không mấy khi thi hành.
Tuy trường khi này do người Pháp quản lý nhưng phong trào đấu
tranh chống thực dân trong học sinh vẫn âm ỉ, ít nhất đã hai lần nữ sinh trường
xuống đường. Lần thứ 1 vào đầu năm 1920, khi một giáo
viên người Pháp yêu cầu học sinh người Việt phải nhường ghế ở hàng đầu cho học
sinh người Pháp ngồi. Lần thứ
2 vào năm 1926,
nhân đám tang cụ Phan Chu Trinh, một phong trào bãi khóa lan rộng từ Nam
chí Bắc để tỏ lòng thương tiếc nhà cách mạng lão thành. Học sinh trường Áo Tím
nhiệt liệt hưởng ứng đưa đến kết quả một vài nữ sinh bị bắt và phải đuổi khỏi
trường.
Năm
1940, quân đội Nhật chiếm đóng trường trong lúc học sinh nghỉ hè. Cũng trong
năm này, trường đổi tên thành Collège Gia Long (Cao đẳng tiểu học Gia Long),
rồi Lycée Gia Long (Trường trung học đệ nhị cấp Gia Long).
Năm
1941: tất cả thầy trò đều phải tản cư về trường tiểu học Đồ Chiểu (Tân
Định). Ngay khi Nhật trao trả lại trường thì quân đội Anh tiếp thu làm trại lính,
kéo dài trong 6 năm.
Năm 1947:
khi được người Anh trao trả, trường bị hư hại nhiều đến nỗi vị hiệu trưởng lâm
thời là cô Mailleret phải vận động mạnh thường quân quyên góp tài chính để lo
việc tu sửa.
Năm 1949:
trường lại được mở rộng: một tòa nhà hai tầng được xây mới ở đường Bà
Huyện Thanh Quan để đáp ứng số lượng học sinh ngày càng tăng. Cũng trong
năm 1949, nữ sinh trường cùng với nam sinh trường Trương Vĩnh Ký tổ
chức bãi khóa kỷ niệm ngày Nam Kỳ Khởi Nghĩa dẫn đến việc trường bị
nhà cầm quyền cho đóng cửa.
Quốc Gia Việt Nam
Năm
1950, sau một cuộc đấu tranh dài hơi có sự góp sức của đông đảo học sinh các
trường khác ở khắp vùng Sài Gòn – Gia Định (trong số ấy có nhiều học sinh đã hy
sinh, như Trần Văn Ơn của trường Trương Vĩnh Ký), trường được mở cửa lại
và đánh dấu một sự kiện lớn: cô Nguyễn Thị Châu, cựu nữ sinh Áo Tím, là vị giáo
sư Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm vào chức hiệu trưởng; đó là một niên học
đáng ghi nhớ trong lịch sử của trường (Cô Châu qua đời tại Pháp năm 1996)
Đến
1952, chương trình giáo dục Việt dần thay thế chương trình giáo dục
Pháp; nữ sinh phải học cả hai ngoại ngữ là Anh – Pháp song song. Kỳ thi
tuyển vào trường rất khó và được đem so sánh với kỳ thi vào trường dành cho nam
là Lycée Petrus Ký với số học sinh tham dự đến từ khắp nơi trong miền
Nam : Sài
Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Tân An…
Năm
1953, đồng phục áo dài tím được thay thế bằng áo dài trắng với phù hiệu bông
Mai Vàng. Sau cùng là huy hiệu với tên trường Gia Long được thêu trên vải.
Thời Việt Nam Cộng Hòa
1954, chính
quyền Việt Nam
ra lệnh dùng tiếng Việt trong mọi cơ sở của người Việt và đương nhiên cả trong
ngành giáo dục. Trong hệ thống mới, tiếng Anh, tiếng Pháp trở thành ngoại ngữ.
Tên trường được gọi chính thức là Nữ trung học Gia Long.
Năm
1964 trường bỏ nội trú. Những dãy lầu từng được dùng làm nơi cư ngụ cho các học
sinh nội trú được sửa thành lớp học. Buổi sáng có tất cả năm mươi lăm lớp học
từ đệ Tứ đến đệ Nhất (lớp 9 đến lớp 12). Buổi chiều có tất cả bốn mươi lăm lớp
từ đệ Thất đến đệ Ngũ (lớp 6 đến lớp 8). Tổng công sáng chiều trường có tất cả
một trăm lớp học với tổng cộng 3000 học sinh. Trên bước đường phát
triển, trường xây thêm: Thư Viện (1965), phòng Thí Nghiệm Lý Hóa (1966).
Năm
1967, mở rộng Giảng Đường nằm bên cạnh thư viện. Xây dựng sân khấu với mặt tiền
chiếm hết chiều rộng của Giảng đường, đồng thời trang bị thêm đàn dương cầm.
Cùng thời gian này, trường trang bị thêm Phòng nhiếp ảnh (nhưng chỉ hoạt động
thời gian ngắn). Năm 1968, trường xây thêm hồ bơi đối diện thư viện.
Vào
khoảng thập niên bảy mươi, kỳ thi tuyển vào đệ thất (lớp 6 ngày nay) mỗi
năm có chừng bảy trăm nữ sinh trúng tuyển trong số hơn mười ngàn thí sinh. Một
cuộc tuyển sinh vào hệ trung học trường vào khoảng năm 1971 được ghi nhận như
sau: có tổng cộng 8000 học sinh ghi danh và thi tuyển nhưng chỉ có 819
đậu. Trường có độ hai trăm giáo sư và năm ngàn nữ sinh.
Thời gian này cũng là thời gian nữ sinh trường tham gia rất mạnh
vào các phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam, trong đó một số
học sinh đã tham gia trực tiếp vào Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam, chính các phong trào như trên ở nữ sinh trường đã khiến cho nhà
nghiên cứu Trần Bạch Đằng gọi nhiều thế hệ nữ sinh là: Áo
Tím trên các nẻo đường đất nước.
Bài 3:
THƯƠNG TIẾC LA DALAT
Huỳnh
Ngọc Chênh – 16 /7/2013
Vào năm
1970, trên các thành thị lớn ở miền Nam
đã xuất hiện chiếc ô tô mang thương hiệu Việt Nam chạy trên các đường phố, đó là
xe La Dalat.
Một phần do giá rẻ, một phần do tự hào với thương hiệu ô tô đầu tiên được sản xuất trong nước, người tiêu dùng ViệtNam thời đó rất ưa chuộng chiếc La
Dalat.
La Dalat do hãng Citreon của Pháp đầu tư lắp ráp tại ViệtNam với tỉ lệ
nội địa hóa ban đầu là 25%. Đến năm 1975, khi hãng nầy buộc phải đóng cửa thì
tỉ lệ nội địa hóa đã lên đến 40%.
Một phần do giá rẻ, một phần do tự hào với thương hiệu ô tô đầu tiên được sản xuất trong nước, người tiêu dùng Việt
La Dalat do hãng Citreon của Pháp đầu tư lắp ráp tại Việt
Nếu sau 75, cứ để tiêp tục sản xuất xe La Dalat thì đến bây
giờ, qua 40 năm, không những Việt Nam sản xuất được xe ô tô 100% nội địa mà còn
xây dựng được ngành công nghiệp sản xuất ô tô chẳng thua kém ai.
Nếu tôi nhớ không nhầm, hồi Việt Nam
có La Dalat thì Nhật Bản cũng bắt đầu tung ra thị trường những chiếc Toyota đầu tiên, còn Hàn
Quốc thì chưa có gì cả.
Còn bây giờ thì, vào năm 2007, ngành công nghiệp ô tô, Nhật
đứng nhất thế giới và Hàn Quốc đứng thứ 5. Còn Việt Nam …thì thôi khỏi nói.
Bây giờ đường phố Sài Gòn, Hà Nội cũng chật cứng xe hơi và
chỉ thấy toàn Toyota, Hyundai, Kia, Honda, Ford, Mercedes…cho chúng mầy cong
lưng ra sản xuất xe, chúng tao chỉ cần móc đất, phá rừng ra bán là sắm được
thôi. Ka ka. Ai sướng hơn ai?
La Dalat: Chiếc xe hơi Made in Vietnam vang danh một thời
Kiều Châu – Bizlive – 17/ 10 /2014
Từ năm
1970 cho đến 1975, Công ty Xe hơi Sài Gòn đã sản xuất hơn năm ngàn chiếc xe dân
dụng La Dalat tại Việt Nam với mức độ nội địa hóa lên đến 40%.
Vào năm
1936, hãng chế tạo xe của Pháp Citroën đã thiết lập xưởng sản xuất đầu tiên ở
Đông Dương với trụ sở ban đầu tại góc đường Lê Lợi – Nguyễn Huệ, ngày nay đã
trở thành Caféteria Rex ở Sài Gòn. Sang đến thời Việt Nam Cộng hòa xưởng sản
xuất được dời đi và đổi tên thành Công ty Xe hơi Citroën, tiếp đến là Công ty
Xe hơi Saigon
Sau Thế
chiến thứ 2, để đáp ứng nhu cầu về phương tiện di chuyển của dân Pháp đương
thời, hãng chế tạo xe Citroën đã tung ra thị trường chiếc xe 2CV. Sau đó hãng
này tiếp tục cho ra đời loại xe Citroën Dyane 6 và Méhari lần lượt vào cuối
thập niên 50 và đầu thập niên 60. Xe Citroën La Dalat sản xuất ở Việt Nam là
loại xe dựa trên kiểu Citroën Méhari. Vào giữa thập niên 60, trước sức ép cạnh tranh
từ các loại xe gắn máy 2 bánh: Honda, Suzuki, Yamaha, Kawasaki, Bridgestone….
cũng như các loại ô tô Toyota, Mazda, Mitsubishi, Nissan, Daihatsu… nhập khẩu
từ Nhật Bản, hãng Citroën quyết định tung ra thị trường một loại xe thực dụng
và rẻ tiền, loại xe mà các công ty sản xuất xe Nhật Bản không thể cạnh tranh
được. Chiếc xe được đặt tên là La Dalat.Năm 1969, công ty Citroën mua bản quyền
thiết kế của chiếc Baby Brousse từ công ty Ateliers et Forges de l’Ebrié.Tiếp
đó, các kỹ sư của chi nhánh Société Automobile d’Extrême-Orient tại Sài Gòn bắt
tay vào sản xuất và lắp ráp ngay tại Việt Nam một chiếc xe tuy không sang trọng
và mạnh như xe Mỹ, nhưng giá thành và chất lượng ăn đứt tất cả các loại xe của
Nhật.
Và
chiếc La Dalat ra đời với 4 kiểu dáng khác nhau có phần máy và hệ thống tay
lái, bộ nhún, bộ thắng… nhập cảng từ Pháp, trong khi, các bộ phận như đèn, kén
báo hiệu, ghế nệm, dàn đồng đóng bằng tôn, mui xe bằng lá thép uốn hoặc vải,…
được thiết kế và sản xuất ngay tại Sài Gòn Tuy dựa theo thiết kế của chiếc Baby
Brousse, nhưng La Dalat được cải tiến để có thể sản xuất hàng loạt mà không đến
cần máy ép thép công nghiệp hạng nặng như Baby Brousse.
Lúc
tung ra thị trường vào năm 1970, tỷ lệ bộ phận nhập cảng so với bộ phận nội địa
là 75/25 và đến năm 1975 khi hãng Citroën ngừng hoạt động, tỷ lệ này là 60/40.
Có tất cả là 4 kiểu La Dalat: loại 4 chỗ ngồi hoặc 2 chỗ ngồi với thùng chở
hàng.
Ước
tính từ năm 1970 cho đến 1975, Công ty Xe hơi Sài Gòn sản xuất hơn năm ngàn
chiếc La Dalat, tức là hơn một ngàn chiếc mỗi năm! Theo thiết kế, chiếc xe
này sở hữu động cơ 4 thì, 602 phân khối, 2 xi-lanh đối ở 2 đầu nằm dẹp (flat
twin), hộp số gồm 4 số tay, chuyền động ở trục bánh trước. Chiếc xe có chiều
dài 3,5m; rộng 1,53m; cao 1,54m; nặng khoảng từ 480-590 kg tùy theo kiểu.
|
La
Dalat được đánh giá là chiếc xe ít tốn xăng, dễ sửa chữa, dễ thay thế các bộ
phận hỏng hóc, đặc biệt các bộ phận như cánh cửa, kính xe đều có thể “tự chế”,
dễ làm hơn các loại xe Nhật và rẻ tiền. Các bộ phận rời được bán với giá phải
chăng vì hoàn toàn được chế tạo tại Việt Nam Tiền thân là gốc Pháp nhưng La
Dalat đã để lại dấu ấn không hề nhỏ mang tên Việt Nam. Năm 1973, ngạc nhiên và
hài lòng với thành công đáng ngờ của Công ty Xe hơi Sài Gòn, Citroën đã sang
Việt Nam lấy 3 chiếc La Dalat về Pháp để mổ xẻ phân tích thiết kế, từ đó họ cho
ra đời kiểu khung xe dễ sản xuất mà không đòi hỏi đầu tư nhiều công nghệ như
chiếc Baby Brousse mui trần thế hệ thứ hai hay chiếc FAF.
Bài viết được cập Loạt Bài về Saigon Trước 1975 (Bài 4)
Bài 4: Cà phê Sài
Gòn của tôi
Đoàn Khắc Xuyên -25/1/2015 – Báo Người Đô Thị
Cà phê Sài Gòn xưa có nhiều loại, nhiều gu, nhiều hạng, từ thượng
lưu cho đến bình dân như cà phê vợt quán cóc đầu hẻm. Nhưng nói đến cà phê Sài
Gòn xưa không thể không nói đến những quán cà phê nhạc mà khách hàng chủ yếu là
giới trẻ, sinh viên học sinh – nơi dệt nên những tình bạn và những mối tình đơm
hoa kết trái hoặc không…
Cà phê Sài Gòn, với tôi, là cà
phê – một thời tuổi trẻ, một thời sinh viên giảng đường đại học, một thời bè
bạn, một thời tình ý gái trai…
Cà phê Sài Gòn với tôi không
tách rời, không thể tách rời những thứ ấy. Không có những thứ ấy thì không có
cà phê Sài Gòn như lắng đọng trong tôi hôm nay. Cũng như không có cà phê Sài
Gòn của tôi tách rời với tiếng “đại bác đêm đêm vọng về thành phố” và mặc cho tiếng
đại bác, cà phê Sài Gòn của tôi không tách rời tuổi “lang thang thành phố tóc
mây cài”, “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” với thơ Nguyên Sa, Đinh Hùng, Vũ
Hoàng Chương, Phạm Thiên Thư… và nhạc, ngoài Trịnh Công Sơn, Phạm Duy còn có Vũ
Thành An, Ngô Thuỵ Miên, Lê Uyên Phương… rồi sách của Phạm Công Thiện,
Khrisnamurti, Camus và Sartre vốn đang làm mưa làm gió trong triết học.
Sài Gòn nửa chiến tranh, với
chết chóc ngoài kia và những cuộc biểu tình trong này, vẫn sống cuộc sống đô
thị của nó. Tất cả đó tạo thành một bầu khí quyển quyện chặt lấy và làm nên cà
phê Sài Gòn của tôi một thời.
Từ trung học, ở nội trú, mỗi
sáng tôi đã uống ly cà phê sữa trong bữa ăn sáng. Nhưng với tôi đó không phải
là cà phê đúng nghĩa. Cũng như ly cà phê trước giờ vào giảng đường, ở căntin
đại học Văn khoa Sài Gòn vốn nằm trong ngôi nhà trước là trại lính ấy, đó cũng
chẳng phải là cà phê đúng nghĩa. Cà phê đầu hẻm, cà phê vỉa hè cũng từng, cũng
có vị cà phê. Nhưng cà phê chỉ thực sự là cà phê khi la cà với bạn bè, trai và
gái. Cũng có khi uống một mình, nhưng vẫn như có bạn bè bên cạnh bởi câu chuyện
với bạn bè ngày hôm trước vẫn còn dư âm trong tâm trí.
Cà phê ở những quán trên là cà
phê phin, nhỏ từng giọt từng giọt để đám bạn bè vừa nghe nhạc vừa nói đủ thứ
chuyện, từ chuyện học hành, chuyện làm thêm, dạy kèm kiếm tiền học, chuyện
tương lai, chuyện đứa này đứa kia bị đi lính, chuyện hiện tình đất nước, bầu cử
độc diễn…
Thuở ấy, những năm 1969 – 1972,
là sinh viên xa nhà, mới lên Sài Gòn vừa học Văn khoa vừa phải đi dạy kiếm tiền
sống và mua cours, tôi không dám mơ vào những chốn thượng lưu như Brodard, La
Pagode hay Givral dù thỉnh thoảng vẫn đi qua đấy. Hầm Gió trên đường Võ Tánh,
nay là Nguyễn Trãi, thì hình như có vào một lần với ông anh họ. Tôi thường la
cà, với bạn trai thì ở Năm Dưỡng, một quán cà phê vợt bình dân trong con hẻm
trên đường Nguyễn Thiện Thuật, hoặc Cheo Reo, trên một con hẻm khác cùng con
đường ấy.
Cà phê ở hai quán đó, dù không
thuộc hàng cao cấp, cũng thơm phức, ngon như ở bất cứ quán cà phê xịn nào và
khách bao giờ cũng đông nghịt gần như suốt ngày. Thỉnh thoảng, từ trường Văn
khoa trên đường Cường Để, nay là Đinh Tiên Hoàng, thả dọc xuống cà phê Hân, một
quán nhỏ, ấm cúng, sạch sẽ và lịch sự, với cô chủ quán trẻ, đẹp quý phái thỉnh
thoảng xuất hiện sau ngọn đèn vàng nơi quầy.
Cà phê ngon khỏi nói. Có khi
ngồi đó cả buổi, đọc sách, đọc cours, có khi đọc qua tờ tạp chí Paris Match mà
quán để trên kệ, rồi ngắm những anh chàng trẻ măng đeo kính cận đang chúi mũi
vào “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học” của Phạm Công Thiện hoặc một tác phẩm
đang ăn khách nào đấy. Cũng có khi đang đi trên đường, ngang qua tiệm rang xay
cà phê Jean Martin, xéo xéo nhà thờ Tân Định trên đường Hai Bà Trưng, nghe thơm
phức mùi cà phê rang xay kiểu Pháp, tôi lại ghé quán Nắng Mới cặp ngay hông đại
học Vạn Hạnh ở chân cầu Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sỹ, với những chữ
Moka, Arabica và những hạt cà phê nâu vẽ trên tường. Cả buổi có thể trôi qua ở
đó, trước ly cà phê nhỏ từng giọt, đầu óc nghĩ ngợi mông lung.
Nhưng ngồi mấy quán ấy thường
là ban ngày. Khi chiều buông, đêm xuống, đám bạn sinh viên thế nào cũng phải rủ
nhau vào những quán cà phê nhạc. Khi thì Đỉnh Thiêng, khi thì Da Vàng trong hẻm
trên đường Trương Minh Giảng (nay là Lê Văn Sỹ), khi thì Chiêu trong con hẻm
đường Cao Thắng, khi thì Thăng Long trên đường Hoà Hưng, gần khám Chí Hoà.
Ở Đỉnh Thiêng, Da Vàng, Chiêu
vẫn là những dòng nhạc đã kể ở trên. Ở Thăng Long chủ yếu là tiếng hát Thái
Thanh, ban nhạc Thăng Long và nhạc Phạm Đình Chương, Phạm Duy. Cũng có khi cả
đám bạn bè sinh viên văn khoa, luật khoa, sư phạm, đại học xá Minh Mạng, đứa
quê miền Tây, đứa quê miền Trung kéo nhau tuốt vào quận 10, đến quán Da La.
Cà phê ở những quán trên là cà
phê phin, nhỏ từng giọt từng giọt để đám bạn bè vừa nghe nhạc vừa nói đủ thứ
chuyện, từ chuyện học hành, chuyện làm thêm, dạy kèm kiếm tiền học, chuyện
tương lai, chuyện đứa này đứa kia bị đi lính, chuyện hiện tình đất nước, bầu cử
độc diễn… Và những tia mắt, những câu buông tình ý giữa chàng này nàng kia. Nói
đến cà phê Sài Gòn, đọng lại trong tôi trên tất cả vẫn là những buổi tối cà phê
như thế.
Ký ức cà phê Sài Gòn của tôi là
vậy. Giờ thì cà phê Sài Gòn vô thiên lủng, không chỉ tập trung ở mấy quận trung
tâm, với đủ thể loại cho đủ loại gu, với những cà phê vườn sang trọng hoành
tráng hơn nhiều lần, cà phê hi-end hiện đại đủ kiểu cách. Nhưng dù thế nào, cà
phê vẫn luôn luôn và trước hết gắn liền với giới trẻ, là nơi chốn của bạn bè,
của những tình yêu chớm nở và do đó, không thể tách rời cái văn nghệ, cái lãng
mạn mà không khí Sài Gòn đã mang lại cho nó không biết tự thuở nào.
nhật
lần cuối lúc 21:24 – 07/10/2014
Loạt
Bài về Saigon Trước 1975 – Bài 5
Quy hoạch Sài Gòn trước 1975 dưới ảnh hưởng
của Hoa Kỳ
Nguyễn Đỗ Dũng – 20 Mar 2012 –
dothivietnam.org
“Đà phát-triển trong quá khứ, từ thành-phố cổ, thường hướng theo
phía Bắc dọc theo những giải phù sa cổ. Kế-hoạch phát-triển tương lai cũng sẽ
theo đường hướng nầy, và bất cứ một kế-hoạch thực-tế nào nhắm hướng dẫn sự
phát-triển Thủ đô Sàigon cũng phải nhận thức ro những yếu-tố nầy” – Đề xuất về hướng phát triển cho Sài Gòn
trong Đồ án Quy hoạch bán đảo Thủ
Thiêm năm 1972.
Quy
hoạch sư Nguyễn Đỗ Dũng
Từ giữa thập niên 60, chính phủ
Hoa Kỳ thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế USAID đã hỗ trợ kỹ thuật cho phía
miền Nam Việt Nam về quy hoạch đô thị. Kể từ thời gian này, rất nhiều các đồ án
quy hoạch và nghiên cứu về đô thị quy mô và có chất lượng tại miền Nam được thực
hiện. Trong bài viết này, tôi giới thiệu sơ bộ cách tiếp cận của một số đồ án
này mà không đi sâu về các đề xuất quy hoạch của từng đồ án – đây sẽ là chủ đề
cho các bài giới thiệu sau.
Điển hình là hai đồ án quy hoạch do hai công ty rất có tên tuổi
trên thế giới lúc đó thực hiện: Quy hoạch chung thành phố Sài Gòn do công ty
Doxiadis Associates – Consultants on Development and Ekistics[i] (Hy Lạp) lập năm 1965 và Quy hoạch
phát triển Thủ Thiêm do công ty Wurster, Bernardi and Emmons[ii] (Hoa Kỳ) chủ trì lập năm 1972 thực
hiện. Bên cạnh đó, Frank Pavick và James Bogle lần lượt thực hiện những báo cáo
chi tiết về hoạt động quy hoạch đô thị ở miền Nam và những vấn đề của thành phố
Sài Gòn. Cũng tác giả Frank Pavich sau đó còn thực hiệnKhảo sát sử dụng đất tại Vùng
đô thị Sài Gòn cho Tổng
Nha Kiến thiết và Thiết kế Đô thị[iii]. Những tại
liệu này không chỉ cung cấp những thông tin hữu ích về một phần lịch sử phát
triẻn của thành phố cũng như lĩnh vực quy hoạch tại miền Nam, chúng còn cung
cấu một mô hình thực hiện quy hoạch hoàn chỉnh trong điều kiện kinh tế thị
trường và dựa vào phân tích khoa học hơn là các yếu tố thị giác đơn thuần –
những vấn đề mà ngành quy hoạch Việt Nam đương đại, vốn xuất thân kiến trúc và
trong điều kiện kinh tế chỉ huy, đang rất bối rối.
Các đồ án quy hoạch nêu trên
mặc dù nghiên cứu rất kỹ lưỡng không chỉ về kiến trúc, khí hậu, đất đai mà còn
cả nhu cầu giao thông giữa các khu vực và kinh tế/tài chính. Các hồ sơ quy
hoạch thường kết thúc với phần đưa ra giải pháp triển khai, tài chính dự án và
cả đề xuất rất cụ thể về chính sách cũng như luôn kèm theo thiết kế chi tiết
một dự án thí điểm
Những đồ án hoàn chỉnh và sâu sắc
Hồ sơ đồ sộ của Dioxiadis
Associates (a) giống một nghiên cứu tổng thể quy mô về khí hậu, đất đai, địa
hình – địa mạo, dân số, nhà ở và năng lực tài chính không chỉ của Sài Gòn mà cả
miền Nam lúc đó hơn là một đồ án quy hoạch đơn thuần. Chương trình đồ sộ của Đồ
án thể hiện qua 6 phần:
·
Phần I: Chương trình phát triển cho
vùng đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn trong vòng 30 năm với
liệt kê chi tiết nhu cầu phát triển và tài nguyên cần thiết để
thỏa mãn nhu cầu này.
·
Phần II: Đề xuất tổ chức hành chính cần
thiết đề triển khai chương trình trên bao gồm cơ chế
hành chính của chính phủ, sự tham gia của các thể chế tư nhân,
tổ chức và ngân hàng.
·
Phần III: Một dàn ý kế hoạch để hướng
dẫn sự phát triển của vùng đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn
trong đó có định hình nội dung của quy hoạch, của các nghiên cứu
cần thiết thực hiện và cách thực hiện chúng, xác định
những điều kiện cho phép triển khai thực hiện ngay lập
tức tại một số khu vực trước khi quy hoạch được lập.
·
Phần IV: Nghiên cứu so sánh các loại
hình nhà ở phù hợp với khí hậu Việt Nam .
·
Phần V: Nghiên cứu so sánh tính chất
các loại đất đai trong vùng (khô ráo, bán ngập, cao,
thấp, v.v…) và chi tiết về giá trị và loại hình phát triển phù
hợp cho từng loại.
·
Phần VI: Mô tả chi tiết và đề xuất về
các loại vật liệu địa phương và nhập khẩu cũng như nền
công nghiệp vật liệu tại địa phương.
·
Phần VII: Mô tả về nguồn nhân lực trong
nước để lập và thực hiện chương trình và đề xuất về
đào tạo nhân lực (công nhân xây dựng, thợ mộc, nhân viên khảo sát,
họa viên, kiến trúc, kỹ sư, quy hoạch sư,v.v…).
·
Phần VIII: Quy hoạch tổng thể một dự án
thí điểm thử nghiệm cho khoảng 10,000 ngôi nhà phù hợp
với môi trường Việt Nam .
Đề xuất quy hoạch chi tiết cho một khu dân cư đầu tiên
với khoảng 1000 căn nhà cho dự án trên. Dự án này sẽ
giúp cung câp thông tin về các vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai
chương trình phát triển này cũng như đào tạo nhân lực
và đề trình bày những gì là khả thi.
Đồ án Thủ Thiêm năm 1972 là một ví dụ khác. Khẳng định sự thất
bại của đồ án quy hoạch trước (ví dụ: Đồ án Thủ Thiêm năm 1968) là do “dựa trên
việc sưu tầm thiếu sót vào những đặc tính thể chất của địa điểm và vô số các
yếu tố khác ảnh hưởng đến việc phát triển”[iv], đồ án Thủ Thiêm năm 1972
bao gồm các phần Sưu-khảo (nghiên cứu) sau (a):
·
Thiết kế thể chất (quy hoạch vật thể): thu thập dự liệu về
dân số và đặc điểm đất đai của vùng Sài Gòn (SMA). Xu
hướng phát triển được so sánh với các yếu tố vật thể
mà sẽ ảnh hướng việc phát triển SMA trong những thập
niên tới.
·
Kỹ thuật: địa chất được nghiên
cứu để tìm phương pháp san nền tốt nhất cho khu
vực thấp và ngập nước. Hệ thống kênh rạch được khảo sát
và các dòng kênh chính được vẽ mặt cắt để nghiên cứu.
·
Vận tải: nghiên cứu về lưu
lượng giao thông cho hệ thống đường nội bộ của bán đảo[v]. một phân tích về các giải
pháp vượt sông Sài Gòn được chuẩn bị để đánh giá về
phương pháp và chi phí.
·
Kinh tế: giá trị đất đai và sử
dụng đất được dự báo cho thời gian 30 năm tới và những
giả thuyết về khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển của
bán đảo được đặt ra. Một phân tích phí tổn-lợi ích (cost-benefit
analysis) cho từng phương pháp và một sơ đồ về dòng
tiền (cash flow) đầu tư công cho bán đảo được thực
hiện. Nguồn tài chính bên ngoài và năng lực của các
thể chế tài chính địa phương được nghiên cứu.
·
Những yếu tố khác: những
chính sách và luật lệ của chính quyền được đánh giá về
tác động của chúng đối với phát triển đô thị.
Và như kết luận trong phần Sưu-khảo , những nghiên cứu này vượt
khỏi phạm vi của bán đảo Thủ Thiêm và hữu ích đối với việc phát triển thành phố
nói chung. Đồ án Thủ Thiêm năm 1972 thẳng thắn phê phán mô hình phát triển
tuyến tính do Doxiadis đề xuất vì quá áp đặt và dồn lưu lượng giao thông theo
tuyến vượt sông Sài Gòn xuyên bán đảo. Đồ án cũng phê phán mô hình đô thị vệ
tinh[vi] vì đòi hỏi quá lớn vai trò của chính
phủ trong hiện thực hóa quy hoạch. Đồ án đề xuất thành phố tiếp tục những gì
thực tiễn đang phản ánh: phát triển dọc trục Đông-Bắc dọc theo mảng đất cao và
ổn định.
Ba phần thú vị nhất của đồ án là những thảo luận về việc kết nối
hai bờ sông Sài Gòn, phần về tài chính và phần đề xuất chính sách. Dựa trên
những nghiên cứu về giao thông và giá trị đất đai, đồ án yêu cầu thành phố sớm
hoàn thành tuyến đường vành đai về phía Nam để giảm lưu lượng giao thông xuyên
qua trung tâm và kết nối vơi sân bay tương lai[vii], di dời Tân Cảng và Xưởng
đóng tàu Hải Quân (Ba Son) để xây cầu thấp kết nối trực tiếp đại lộ Hàm Nghi và
đường Nguyễn Bỉnh Khiêm sang Thủ Thiêm[viii]. Cuối cùng, trong nhiều
chính sách được đề xuất, nổi bật là việc đề nghị đưa vào hệ thống thuế dựa vào
giá trị bất động sản (assessment tax), mở rộng địa giới đô thị để bao gồm vùng
nông thôn xung quanh và 20% đất ở triển khai bởi Cơ quan Phát triển Điền địa[ix] sẽ là nhà cho người thu nhập thấp thuê
và trợ giá 50%.
Những lực cản của quy hoạch
Các đồ án và nghiên cứu này tất
nhiên không nhất thiết phản ánh chất lượng thực sự của công tác quy hoạch và
nghiên cứu đô thị tại miền Nam lúc đó vốn vẫn bị ảnh hưởng của trương phái
Beaux Arts do người Pháp để lại (b). Rất khó có thể đánh giá được mức độ tác
động của các đồ án và nghiên cứu này vào hoạt động quy hoạch tại miền Nam . Điều kiện
chiến tranh và ngân sách eo hẹp không cho phép triển khai những đồ án này.
Ngoài ra, theo đánh giá của Seltz vào năm 1970, quá trình chuyển giao công nghệ
không thực sự diễn ra do nhân lực chuyên môn yếu kém trong các cơ quan của
chính phủ và nguồn tiền tài trợ dồi dào khiến tư vấn nước ngoài có khuynh hướng
sử dụng nhân lực ngoại quốc hơn là địa phương (a). Các nghiên cứu và bài báo về
hoạt động quy hoạch ở miền Nam
cũng lột tả tương đối những vấn đề của đô thị và xã hội lúc đó. Rất nhiều những
vấn đề nêu ra nay có thể quan sát thấy trong xã hội và hoạt động quy hoạch
đương đại. Ví dụ, Michael Seltz (a), một nhà quy hoạch làm việc trong một nhóm
cố vấn cho thị trường Sài Gòn rằng 3 yếu tố tác động tiêu cực đến quy hoạch
(ngoài chiến tranh) là: 1/ thiếu thông tin; 2/ nạn tham nhũng khiến việc hợp
tác đa ngành không thể diễn ra; 3/ chính quyền địa phương yếu và không có vai
trò độc lập với chính quyền trung ương; và 4/ thiếu nguồn tài chính. Dưới đây
là lược dịch đoạn tác giả nói về ba vấn đề đầu tiên:
… Quy hoạch Sài Gòn ngày nay gặp khó khăn bởi thiếu thông tin.
Không có con số dự báo chính xác về dân số thành phố. […] Không có nghiên cứu
về các hoạt động kinh tế cơ bản để trả lời câu hỏi về tỷ lệ các ngành công
nghiệp và lao động. […] Không có phân tích mở mức độ khu dân cư cho thấy điều
kiện về nhà ở và công trình công cộng. Rất ít các bản đồ tốt thông tin về thuế
má. Không có các chương trình tài chánh và thông tin về sử dụng đất mới chỉ bắt
đầu manh nha.
… Một nhà quy hoạch, một trong số các nhà quy hoạch của (chính phủ)
Diệm nói với tôi, không thể làm việc độc lập như một bác sĩ hay luật sư. Anh ta
cần hợp tác với rất nhiều các nhóm trong cộng đồng. Nhưng sự hợp tác đó không
hề tồn tại ở Sài Gòn. Bất chấp thực tế là Chính phủ Việt Nam là một chính quyền
độc tài quân sự, có rất nhiều những trung tâm quyền lực (khác nhau) trong lòng
hệ thống hành chính không chấp nhận những nỗ lực hợp tác. […] (tôi) được kể
rằng nỗ lo sợ của người Việt Nam
về sự thống nhất (unitary) chiếm lĩnh rất nhiều cơ quan và các đầu mối quyền
lực liên quan, bởi vì người lãnh đạo (các cơ quan này) có thể kiếm rất nhiều
tiền thông qua việc ăn đút lót.
Thêm vào việc thiếu thông tin quy hoạch, nạn tham nhũng và phan
tán quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy hành chính, là một thực tế rằng
thành phố Sài Gòn không (được vận hành) độc lập. Thị trưởng, trong thực tế, chỉ
là một quan chức nhỏ trong chính phủ, phải báo cáo công việc trực tiếp cho
tướng chỉ huy quân khu. Ngân sách của ông ta thì bị kiểm soát bởi Bộ Tài Chánh,
cơ quan đồng thời nắm sở kế toán của thành phố và là nguyên nhân khiến thành
phố thanh toán chậm trễ cho các chủ nợ. Các bộ khác nhau của chính quyền quốc
gia quản lý các chức năng quan trọng của thành phố, như là giáo dục phổ thông
và công chánh. Đôi khi, người ta cho là những bộ này cố tình đình hoãn các dự
án của thành phố để giữ lại một khoản ngân sách (cho riêng mình) vào cuối năm
vốn có thể bị trưng thu bởi các bộ khác (b).
Bước đi dài và cuối cùng của quy hoạch tại miền Nam trước 1975?
Tuy nhiên, ở một mặt khác, tài liệu quy hoạch tổng thể cuối cùng
cho Sài Gòn mà tôi có: Kế hoạch phát triển vật thể
vùng thủ đô năm 1974
được ghi là thực hiện bởi Nha Thiết kế Thị thônthuộc Bộ
Công chánh và Giao thông là
một đồ án rất khoa học và thể hiện sự tiếp thu các đồ án trước đó do người nước
ngoài thực hiện. Mở đầu phần I: Phúc trình tiên khởi, bản kế hoạch này xác định
:
Phúc-trình này sẽ diễn-tả lần lượt các nhu-cầu được ước-toán, khả
năng cung-ứng của đất-đai và một số giải-pháp đề-nghị.
Đồ án ứng dụng phương pháp
chồng lớp bản đồ bằng công nghệ thông tin để xác định sử dụng đất phù hợp và
thậm chí cả mô hình giao thông cho mỗi khu vực trong toàn vùng đô thị Sài Gòn
(bao gồm cả Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Nhơn Trạch) và đưa ra quy hoạch cấu trúc
có tính định hướng. Trong chương 6: Kết-luận và Đề-nghị, phương pháp được tổng
kết vắn tắt như sau:
… các khu vực đều được phân thành ô vuông, mỗi ô có diện tích 1
cây số vuông. Đặc-tính về đất-đai của mỗi ô đều được phân-tích và lượng-giá
trên một họa-đồ, miêu-tả bằng các màu sắc đậm lợt ấn-định tùy theo mức độ
khả-thi của khu vực. Tất cả các loại họa-đồ này được xếp chồng lên nhau để
xác-định họa-đồ tổng-hợp các loại đất-đai khả-dụng.
[…] Đặc-tính thiên-nhiên và nhân-tạo của mỗi ô vuông được ghi nhận
bằng các mã-số và ký-hiệu, rồi sẽ tùy theo mật-độ quy-định tại mỗi ô vuông, máy
tính điện-tử sẽ ước-toán ra số chi-phí thị-tứ-hóa cho mỗi khu-vực và cho
toàn-thể giải-pháp.
[…] Máy tính điện-tử cũng được xử-dụng để giải các mô-thức
lưu-thông (một tập-hợp công-thức toán-học phức tạp) và ấn-định các ma-trận
di-chuyển (interchange matrix) rồi từ đó suy ra sườn đạo-lộ.
Những phương pháp trình bày ở
đây: phân tích sử dụng đất bằng chồng lớp bản đồ (land use suitability
analysis) và ấn định hành trình bằng ma trận (trip assignment) cho mỗi khu vực
giao thông trong thành phố để từ đó suy ra lưu lượng vẫn là những phương pháp
cơ bản được giảng dạy trong các trường quy hoạch tại Hoa Kỳ ngày hôm nay như
tôi đang được học. Những phương pháp này tuy nhiên ít được biết tới trong giới
quy hoạch đô thị và không được giảng dạy tại Việt Nam ngày hôm nay.
Nếu đây quả thực là một đồ án do người Việt Nam thực hiện,
nỗ lực quy hoạch này xứng đáng được tôn vinh và ghi nhận trong lịch sử như là
sự chuyển biến từ quy hoạch mang tính thiết kế kiến trúc sang một bộ môn khoa
học tổng hợp về phát triển vùng lãnh thổ. Đáng tiếc là di sản này sau đó không
được tiếp thu và chìm vào quên lãng sau 1975[x] để tới hôm nay thế hệ các nhà quy
hoạch được đào tạo trong nhà trường Xã hội Chủ nghĩa khá bối rối trước nền kinh
tế thị trường nơi mà quyết định thiết kế, xây dựng và sử dụng công trình và khu
đô thị không còn thuộc độc quyền của nhà nước (và do đó kiến trúc không còn vai
trò quan trọng trong quy hoạch như trước).
Nay đã có trong tay tất cả những tài liệu trên nhưng với quy mô
đồ sộ của chúng, tôi cần thời gian để nghiên cứu và lần lượt giới thiệu chúng
trên trang blog đô thị này.
[i] Doxiadis Associates (DA) đứng đầu bởi
kiến trúc sư người Hy Lạp Constantinos Doxiadis là một trong những công ty tư
vấn quy hoạch đô thị có ảnh hưởng nhất thế giới vào thập niên 1960. Một trong
những công trình quan trọng nhất được hiện thức hóa của DA là thủ đô Islamabad của Pakistan .
[ii] Wurster, Bernardi and Emmons (WBE) là
công ty kiến trúc có trụ sở chính ở San
Francisco (Hòa Kỳ). Công ty được lập ra bởi William
Wilson Wurster, người sáng lập Trường Thiết kế Môi trường tại Đại học
Californai – Berkely, và sau đó có sự tham gia của hai đối tác trẻ là Bernardi
và Emmons. Donn Emmons là người chịu trách nhiệm về đồ án Thủ Thiêm 1972.
[iii] Thiết
kế đô thị (urban
design) mà chúng ta hiểu ngày nay là một lĩnh vực mới phát triển vào khoảng
giữa thập niên 60 nhằm lấp khoảng trống giữa kiến trúc và quy hoạch. Trong
trường hợp tên gọi của cơ quan này, cụm từ thiết kế đô thị chỉ quy hoạch đô thị và do đó được dịch ra tiếng Anh vào
thời điểm đó trong các tài liệu của USAID là urban planning.
[iv] Bản dịch tiếng Việt của đồ án có nhiều
lỗi (ngoài yếu tố ngôn ngữ tại miền Nam vào thời điểm đó), tuy nhiên để
phản ánh không khí của đồ án, tôi trích nguyên văn và chú
thích thêm để độc giả hiểu.
[v] Tôi chưa thấy đồ án quy hoạch chung
nào ở Việt Nam
ngày nay thực hiện nghiên cứu lưu lượng giao thông. Nếu quý vị nào biết xin
thông tin.
[vi] Các quy hoạch chung ngày nay, từ Hà
Nội tới Tp HCM vẫn theo đuổi mô hình này mà không đề cập tới những mặt trái của
nó.
[vii] Tuyến đường này chính là đại lộ Nguyễn
Văn Linh hôm nay và sân bay quốc tế Long Thành trong tương lai.
[viii] Riêng đề tài kết nối hai bên bờ sông
Sài Gòn là một câu chuyện thú vị mà tôi sẽ kể vào một dịp khác.
[ix] Cơ quan triển khai dự án phía chính
quyền.
[x] Giáo sư Trương Quang Thao và sau đó
một số sinh viên cao học và nghiên cứu sinh của ông có nghiên cứu các đồ án này
tại trường Đại học Kiến trúc TP HCM. Nhờ giáo sư Thao mà tôi cũng lần đầu tiên
biết đến các tài liệu này vào năm 2009. Các tài liệu để viết bài này là tư liệu
lưu trữ của các thư viện đại học tại Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét