MỘT SỰ KIỆN THỜI BAO CẤP THẬT KHỦNG KHIẾP
CÁI ĐÊM HỐM ẤY… ĐÊM GÌ
Cuối
năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều chủ nhật, thằng
Học con tôi rủ rỉ nói:
- Con bắt được bác Quang ăn
bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó
nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm
nào sang bác đánh chết.
- Hừ! Lại thế nữa...
Tôi buột miệng bảo với con
thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có
điều gì nhỉ?
Sáng thứ hai tôi sang cơ quan
ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi
trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà
làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
- Giá có một mình thì tôi
vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng
è, sợ tối.
Là trưởng phòng tổ chức ủy
ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả
tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường
dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu
tết được". Quang lắc đầu bảo thế.
Anh gạn tôi:
- Ông ở đây với tôi đêm nay
cho vui. Tôi buồn quá.
Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó
buộc sau xe, bảo anh Quang:
- Phải mang "hàng chiến
lược" này về chứ.
Nếu nghe lời Lê Quang Trung
nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã
tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì...
Có cái "các" quá
giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông
Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ
len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a
í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp
than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học
- thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.
Thấy tôi về thằng Thức reo
lên:
- A bố! Bố về là bố về! Có
chi không bố?
- Có cái rét cóng đây này!
Tôi nói rồi dắt xe vào nhà,
mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:
- Ứng được năm cân gạo.
Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã
lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:
- Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va
ăn!
Tôi hỏi:
- Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở
miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:
- Chỉ nấu cơm cho bà với em
thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau
cải.
Tôi thấy cay sè trong mắt.
- Thế thì nấu thêm vào. Hết
thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín
vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?
Vợ tôi định cãi câu gì đó,
nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
- Rau cải ế nhăn! Đói, chả
mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì
mai gác con lên...
Ngoài cửa gió ào ào, tiếng
chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú
Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội
sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm.
Cô vào bếp vừa nói, vừa run:
- Sao năm nay rét sớm thế
này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.
Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp,
mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay,
ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng
tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
- Bác có ngan, gà gì để cho
cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
- Còn có vài ba con, phải để
hôm sau bà...
Tôi lừ mắt chặn lại câu nói
hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm
tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu
mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi.
Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà... thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ
bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn
áo quan để hôm sau... Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay
trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ.
Khổ mãi rồi.
Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ
rồi cho bà cụ khỏi giận:
- Mua đồ nhậu làm gì tối thế
này?
- À... mua cho mấy thằng về
đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.
Vì có chồng ở ban quản trị,
cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho
vợ tôi biết đêm nay là đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ
đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này
là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
- Bác có thiếu sản, thì liệu
mà xoay đi
- Thế thì tao đét bán rau cho
mi nữa.
Vợ tôi toan từ chối, nhưng
Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn
soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm
cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau.
Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào
lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn
đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.
Tôi lùa hai bát cơm với nước
dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám
ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng.
Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ...
Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
- Nhà mình còn thiếu của hợp
tác xã bao nhiêu thóc nữa em?
Cô ấy không trả lời tôi mà
nói rất vô lễ:
- Có biết thế này, đái tòe
tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn
nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở
trò giảm tỷ lệ!
Tôi vỗ về:
- Thôi! Lụt thì lụt cả làng,
em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?
- Một tạ mười hai cân, em đã
trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt
nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói
khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.
- Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo
bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp
nơi đây.
Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
- Chả nhẽ kiếm liều thuốc
chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...
Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ
cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào
nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy
cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp,
lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.
- Ngủ đây mà ấm, bố ạ!
Trong giường thằng Út Văn
khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp
sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì
hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc
cho dịu cơn lo buồn.
Gần mười hai giờ khuya, cả
nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.
Có điều gì đó bồn chồn và nơm
nớp...
Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã
liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền.
Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của
tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực.
Hoàng Văn Nhân, đội trưởng
đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác
xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa
phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý.
Ông trưởng công an xã Nguyễn
Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an
tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động.
Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục
cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
Gần một giờ sáng, công an,
dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch
như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết
lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên
nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang
lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.
- Cứ bắt lấy cái xe đạp!
Phích, xô, bắt ráo!
Ở cổng nhà tôi đã có bước
chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.
Cạch cạch cạch.
- Chị cò Lộc, mở cửa ra!
Tiếng thằng bé trong buồng
khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng
Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng
quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm
tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
- Có chuyện gì đấy, các bạn
trẻ ơi?
- Thu thóc, thu thóc chứ còn
gì, ông đừng hỏi vờ.
Vợ tôi đã mở toang cửa, tay
ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi
đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm
châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này.
Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã
khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay
cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run
rẩy chào.
Theo danh sách đội báo, chị
còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp ngay!
Bà cụ tôi đáp thay con dâu:
- Các bác các anh ơi! Có còn
cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi
à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?
- Chúng tôi không hỏi mụ nghe
chưa?
Cả bốn người cùng soi đèn pin
khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong
vườn rau. Vợ tôi mếu máo:
- Làm gì có lúa để ngoài ấy.
Các anh xéo nát cả rau.
Tôi chạy ra trụ sở đội, định
tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội
về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả
Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí.
Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.
Anh Miện bảo nhỏ tôi:
- Chú về động viên gia đình
thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh
đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.
Tôi đang định nói: "Đã
không có thóc thì làm cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:
- Ở đội trên, hắn bắt cả anh
Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi... "Mất mùa màng, lợi ích
thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". Đồng chí
bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.
Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân
quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... để
ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ
vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú
Được phó chủ nhiệm)... Mấy con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng
lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ",
"hấp bồ"...
Tôi loạng choạng đi về nhà,
thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:
- Các người anh em soi tìm gì
cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.
Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra
hiệu.
- Đêm nay là đêm nay! Mai
chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?
- Bắt cái xe đạp ni, bay!
Hai ba anh chạy lại. Tôi từ
tốn ngăn họ:
- Các đàn anh ơi! Tôi không
làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị
bắt cái này không được đâu.
- Nếu chúng tôi cứ bắt thì
sao?
Tôi loáng nghĩ được một mẹo.
Rút cái "thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói:
- Tôi phản đối! Tôi là
"nhà báo"! Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.
Nước cờ của tôi không ngờ lại
có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.
Chợt vị "hộ pháp"
nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
- Cái gì trong này, chị Lộc?
Im lặng...
- Cái gì trong này, chị nói
mau?
Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc
thở.
- Có cái gì đâu...
Mấy vị hăm hở lại, đạp lật
nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như
một hiệp đào vàng trúng vỉa:
- A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em
ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.
Mẹ tôi chống gậy vái dài:
- Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ
tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho,
để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.
Thực ra là của hai bà chị
trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa
qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành "hôm
sau" cho bà.
Bà cụ nói như rên rẩm:
- Đã bảo xay phứa đi cho con
nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa
là!
Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
- Chị có gánh đi hay không
thì bảo?
Một tay khác tôi hơi quen
mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:
- Thôi em xin bà chị. Em đi
làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng
thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công
là ít, chưa nói phạt tiền.
Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra,
để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư
vị, van rối rít.
- Cháu van các chú! Các chú
đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm
ma bà!
- Buông ra đi! Ô hay, đồ con
nít!
Bà cụ loạng choạng đi lại,
giơ gậy cản:
- Các ông không thương trẻ,
thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.
Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như
con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.
- Ối Đảng ôi là Đảng ôi!
Chính phủ ôi... Trông xuống mà coi...
Tôi xốc mẹ lên giường, bịt
mồm cụ lại:
- Mẹ! Mẹ không được la như
thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!
Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm
răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết
lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc
ra trụ sở nộp...
Đoạn cuối này tôi dành cho
anh Quang.
Lê Trung Quang ơi! Anh có thể
giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau
của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của
anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.
Chuyện thật của nhà anh đây:
lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy
nấu bánh đúc đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu.
Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình
bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái đêm
hôm ấy... đêm gì?"
PHÙNG GIA LỘC - Cuối năm
1987
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét